Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Tại sao bài báo khoa học bị từ chối?


Read : 526 times
http://www.nature.com/polopoly_fs/7.6838.1349964812!/image/1.11583_Reject-Stamp.jpg_gen/derivatives/landscape_300/1.11583_Reject-Stamp.jpgHôm qua (27/12) tôi có dịp nói chuyện trong một seminar của Khu công nghệ cao Sài Gòn (Saigon High Tech Park – SHTP). Trong 3 bài nói chuyện, có một bài bàn về lí do bài báo khoa học bị từ chối. Đây là một đề tài tôi tìm hiểu cũng khá lâu trong vai trò của một tác giả, người bình duyệt, và biên tập. Tôi có thể chia sẻ những lí do từ chối bài báo khoa học mà có lẽ ít khi nào được đề cập một cách công khai trên các tập san khoa học. Nhiều bạn đề nghị tôi chia sẻ bài này cùng các bạn không có dịp tham gia buổi seminar, nên tôi đăng kèm theo đây bài nói chuyện đó. Nhân dịp năm mới sắp về, mến chúc các bạn xa gần một năm mới an khang và nhiều may mắn.

Bất cứ ai làm khoa học cũng có hơn một lần ngậm ngùi thấy tác phẩm của mình bị từ chối. Ngày nay, tin bị từ chối thường được gửi qua email, mà dòng đầu của lá thư thường có câu đại khái như “Thưa giáo sư ABC: Chúng tôi đau lòng báo tin cho giáo sư biết rằng bài báo của giáo sư không được chấp nhận cho công bố trên tập san XYZ. Chúng tôi nhận khoảng 1000 bản thảo mỗi năm, và chúng tôi phải từ chối khoảng 90%, dù những bài báo đó rất tuyệt vời. Cám ơn giáo sư đã cho chúng tôi cơ hội xem qua công trình của giáo sư, và hi vọng rằng trong tương lai, giáo sư sẽ tiếp tục gửi bài cho chúng tôi.” Thật ra, họ nói là “đau lòng”, chứ trong thực tế thì họ chẳng đau lòng chút nào cả! Họ nói là đã đọc qua, nhưng chắc gì họ thật sự đã đọc hết bài báo. Kinh nghiệm của tôi cho thấy, họ chỉ đọc tựa đề, bản tóm tắt, và xem qua vài bảng số liệu hay biểu đồ mà thôi, và họ quyết định từ đó. Do đó, để nâng cao xác suất được chấp nhận, cần phải đặt tựa đề bài báo cho thích hợp, soạn bảng biểu cho thật tốt và công phu.
Đọc những lá thư như trên là một kinh nghiệm đau lòng. Có lần một nghiên cứu sinh của tôi khóc ròng khi nhận lá thư từ chối, và chị ấy phải mấy cả 3 tuần lễ mới “hồi phục”. Phản ứng trước quyết định bị từ chối có khi rất … cảm tính. Chẳng hạn như lá thư nổi tiếng dưới đây của một tác giả gốc Âu châu gửi cho tổng biên tập của American Journal of Epidemiology (tập san số 1 vè dịch tễ học trên thế giới mà tôi là một người duyệt bài) có đoạn viết:
Dr. Szklo,
What could I expect from an american (sic) editor? I will no longer buy american (sic) products.
Rõ ràng, tác giả rất giận dữ. Chú ý rằng tác giả không thèm có chữ “Dear” trước tên của ông Szklo. Ông còn “giận cá chém thớt” bằng cách đe dọa không mua hàng hóa của Mĩ. Có lẽ vì quá giận, nên vị tác giả này thậm chí viết sai chính tả (hay cố tình đánh vần thường cho chữ American)!
http://mariechelini.files.wordpress.com/2012/07/rejection-letter.jpg?w=300&h=255
“Thủ phạm” từ chối không ai khác hơn là tập san khoa học, hay nói đích xác hơn là ban biên tập. Thật ra, ban biên tập chỉ là người ra quyết định sau khi xem xét đề nghị của các chuyên gia bình duyệt. Do đó, thủ phạm đích thực chính là các chuyên gia bình duyệt dấu mặt. “Dấu mặt” hiểu theo nghĩa tác giả không biết họ là ai, theo nguyên tắc bảo mật, nhưng họ biết tác giả là ai.
Là người bình duyệt và biên tập cho một số tập san khoa học qua nhiều năm, tôi thu thập được một số kinh nghiệm và thông tin về số phận những bài báo khoa học bị từ chối. Mỗi năm, ban biên tập thường có một buổi họp cuối năm để nghe nhà xuất bản báo cáo về số lượng bản thảo được nộp, số bài bị từ chối, và lí do bị từ chối. Qua những cuộc họp này, tôi có thể biết được một số lí do bài báo bị từ chối chính. Những lí do này có thể tóm lược trong 4 nhóm:
  • Tầm quan trọng của đề tài nghiên cứu
  • Phương pháp và thiết kế nghiên cứu
  • Cách trình bày dữ liệu và cách viết
  • Diễn giải kết quả nghiên cứu
Chi tiết của những lí do vừa đề cập trên được đề cập trong bài nói chuyện (kèm theo đây). Những công trình nghiên cứu “me too” (tức lạp lại hay bắt chước nghiên cứu trước đây) sẽ khó có cơ hội công bố trên các tập san có tiếng. Những nghiên cứu mà câu trả lời chẳng có ảnh hưởng gì đến chuyên ngành, chẳng gây tác động gì đến chính sách công hay thực hành lâm sàng cũng khó có cơ hội được công bố. Những vấn đề liên quan đến phương pháp nghiên cứu (mô hình không thích hợp, phương pháp đo lường kém, phương pháp phân tích dữ liệu sai, thiết kế sai, v.v.) cũng là một trong những lí do bị từ chối nhiều nhất. Bảng dưới đây thống kê những lí do bị từ chối phổ biến nhất. Gần 3/4 bài báo bị từ chối là do khiếm khuyết về phương pháp nghiên cứu và phương pháp luận.
Một số lí do chính
Phần trăm
Phương pháp và phương pháp luận
74.3
Tầm ảnh hưởng thấp hay không có ảnh hưởng
60.3
Văn phong
58.4
Tổng quan tài liệu
50.9
Phân tích dữ liệu
42.1
Cấu trúc bài báo
34.6
Chất lượng và tính nghiêm túc
30.0
Lấy mẫu
29.2
Phần kết luận
27.6
Phần bàn luận
25.2
Tài liệu tham khảo
23.6

Hai nhóm nguyên nhân bị từ chối khác là văn phong khoa học và diễn giải kết quả. Văn phong khoa học dở, tiếng Anh sai quá nhiều, cách trình bày dữ liệu lượm thượm, v.v. thường làm cho người bình duyệt bực mình và rất dễ bị từ chối. Ngoài ra, kết luận không phù hợp với dữ liệu cũng là một trong những lí do bị từ chối khá thường xuyên.
Biết được lí do bài báo bị từ chối cũng là một cách học. Học để nâng cao xác suất được chấp nhận của bài báo kế tiếp cao hơn. Nếu những phân tích trên đây cung cấp một thông điệp chính, tôi nghĩ đó là vấn đề ý tưởng và phương pháp. Đừng phí thì giờ cho những ý tưởng làng nhàng tủn mủn, những ý tưởng “mickey mouse”, vì những nghiên cứu như thế sẽ chẳng dẫn tác giả đi đến đâu trong khoa học. Ý tưởng hay mà phương pháp không thích hợp cũng khó có cơ may được công bố. Bởi vì gần 75% bài báo bị từ chối là do khiếm khuyết về phương pháp, nên các tác giả cần phải đặc biệt quan tâm đến phần phương pháp nghiên cứu.
Thật ra, bài báo bị từ chối có khi là một cơ hội hay.  Theo một phân tích mới đây, những bài báo bị từ chối sau khi được chỉnh sửa lại thường được công bố trên những tập san có impact factor cao.  Do đó, không nên buồn khi thấy công trình của mình bị từ chối, mà nên xem đó là một cơ hội để làm cho tốt hơn và hay hơn.
N.V.T 

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint



Những lỗi phổ biến trong trình bày bằng Powerpoint   
http://smartmouth.pbworks.com/f/1228870406/presentation.jpgĐã dự rất nhiều hội nghị khoa học lớn và nhỏ ở nhiều nơi, kể cả ở Việt Nam, tôi thấy một số sai lầm phổ biến trong cách trình bày bằng powerpoint (PPT). Những sai lầm này thường liên quan đến cách soạn slide, nội dung, và cách trình bày. Thật ra, ngày xưa, lúc mới bước vào học, tôi cũng từng phạm phải những sai lầm như thế, nhưng nhờ có thầy chỉnh sửa và hướng dẫn, nên đã tránh được những sai lầm đó và học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm. Nay đã đến lúc tôi có thể chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân cùng các bạn.

Mục tiêu của bất cứ bài nói chuyện nào cũng là chuyển giao thông tin. Chuyển thông tin từ một cái đầu sang nhiều cái đầu. Không chỉ chuyển giao, mà còn phải chuyển giao một cách có hiệu quả. Để đạt được hiệu quả, diễn giả cần phải có nội dung tốt, một bộ slide hoàn chỉnh, và một phong cách trình bày chuyên nghiệp. Chỉ khi nào một bài thuyết trình hội đủ 3 nhu cầu trên thì mới có thể xem là thành công.
Nhưng trong thực tế, tôi đã thấy rất nhiều bài nói chuyện trong các hội nghị trở thành nhạt nhẻo, và khán giả chẳng học hỏi được gì từ bài nói chuyện. Chúng ta có câu Chiếc áo không làm nên thầy tu. Tương tự, nếu diễn giả có một nhúm slide, chưa chắc diễn giả đó đã có một bài thuyết trình. Một nhúm slide khác với một bài thuyết trình. Đã từng tham dự nhiều hội nghị và hội thảo ở Việt Nam, tôi rút ra một số kinh nghiệm, hay nói đúng hơn là một số sai lầm phổ biến dưới đây.
Những sai lầm khi soạn slide
1. Vấn đề chọn màu. Một trong những sai lầm phổ biến nhất là cách chọn màu cho slide. Có hai màu diễn giả cần phải chọn: màu nền (background color) và màu chữ (text color). Nhiều diễn giả không chú ý nên chọn màu không thích hợp. Chẳng hạn như nền màu xanh đậm mà chữ màu đỏ hay màu đen, hoặc nền màu trắng nhưng chữ màu vàng, v.v. là không thích hợp. Không thích hợp vì rất khó đọc. Nhiều người Việt có thói quen chọn màu đỏ chói làm màu nền, và đó là một cách chọn không thích hợp, vì màu đỏ là màu “high energy” làm cho người đọc rất khó chú ý.
Nếu hội trường rộng, nên chọn màu chữ sáng (màu vàng, trắng) trên nền tối (màu xanh đậm). Nếu hội trường nhỏ hay trung bình, nên chọn chữ màu đậm (xanh đậm hay đen) trên nền sáng (màu trắng).
http://www.thugmed.com/home/wp-content/uploads/2008/11/bad-slide.jpg
Một ví dụ về chọn màu nền (mây) và màu chữ không thích hợp

Mầu sắc

Tránh kết hợp mầu đỏ và xanh lá cây vì rất nhiều người bị mù mầu với sự kết hợp này


Ngộ độc Powerpoint!



2. Vấn đề chọn kiểu chữ (font). Kiểu chữ có ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu và tốc độ đọc. Nhiều diễn giả không chú ý đến font chữ khi soạn slide, nên gây khó khăn cho khán giả. Có hai loại kiểu chữ chính: kiểu chữ có chân và kiểu chữ không có chân (sans serif). Kiểu chữ có chân tiêu biểu là Time, Times New Roman, Cambria. Kiểu chữ không có chân là Arial, Verdata, Calibri. Nhiều người Việt thích chọn kiểu chữ có chân vì họ nghĩ đó là kiểu chữ đẹp. Đẹp thì đúng, nhưng là một sai lầm trong PPT, vì có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng kiểu chữ có chân làm người ta tốn thì giờ đọc hơn là kiểu chữ không có chân. Đó cũng chính là lí do tại sao các “đại gia” internet như Yahoo! và Google dùng chữ không có chân trên các trang web của họ.
Có diễn giả thích “trang trí” chữ bằng cách làm bóng (shadow) cho chữ. Đây là một kĩ thuật chẳng những mất thì giờ, mà còn phản tác dụng, vì rất khó đọc và nhức mắt. Tuyệt đối không “trang trí” chữ bằng bóng!
3. Khổ chữ. Không gì khó chịu hơn khi diễn giả trình bày slide mà khán giả không đọc được vì khổ chữ quá nhỏ. Nhưng trong thực tế thì vấn đề này xảy ra rất nhiều lần, mà diễn giả thì có vẻ rất vô tư, không quan tâm đến khán giả. Kinh nghiệm của tôi cho thấy nên chọn cỡ chữ từ 18 đến 30. Nếu chọn kiểu chữ Arial thì khổ chữ 18 hay 20 là hợp lí; nếu chọn kiểu chữ Calibri thì kích thước phải cỡ 25 hay 30 mới dễ đọc. Mỗi slide nên có tựa đề, và tựa đề nên có kích thước 35 đến 45.   Nếu có ghi chú (footnote) thì có thể dùng kích thước 12.
4. Quá nhiều chữ trong slide. Một trong những sai lầm phổ biến nhất là diễn giả trình bày quá nhiều chữ trong một slide. Có nhiều slide, tôi không phân biệt được là một đoạn văn hay là một power point. Thật vậy, có nhiều người vì lí do nào đó (có thể là lười biếng) nên cắt từ Word và dán vào slide. Cũng có người có thể do sợ không thuộc bài, nên viết hết những câu văn trên slide như là một văn bản. Đây là một sai lầm tai hại, vì khán giả sẽ không theo dõi được. Nghiên cứu tâm lí chỉ ra rằng, một người bình thường chỉ có thể lĩnh hội nội dung slide trong vòng 20-30 giây; nếu qua thời gian đó mà không lĩnh hội được thì họ sẽ bỏ, và diễn giả đã thất bại trong việc truyền đạt thông tin.
Để khắc phục vấn đề này, cần phải biết “qui ước n x n”. Theo qui ước này, nếu slide có n dòng, thì mỗi dòng chỉ nên có n chữ. Chẳng hạn như nếu slide có 5 dòng thì mỗi dòng nên có 5 chữ. Một slide có 6 dòng trở nên là quá nhiều. Số dòng lí tưởng là 3-5.

5. Viết slide như viết văn bản. Người thiếu kinh nghiệm thường soạn slide như họ viết văn bản, tức là câu cú có chủ từ, động từ, theo đúng văn phạm. Dĩ nhiên, không có gì sai trong cách làm như thế, nhưng đó là cách làm thiếu tính chuyên nghiệp. Người có kinh nghiệm soạn slide theo công thức telegraphic, tức viết giống như viết điện tín ngày xưa, hay như cách phóng viên viết tiêu đề bài báo. Cách viết telegraphic có hiệu quả giảm số chữ trong mỗi slide, và giúp diễn giả tập trung vào cách diễn giải vấn đề hơn là đọc. Một cách phân biệt cách viết theo kiểu văn bản và telegraphic như sau:
  • Văn bản: Loãng xương là một bệnh với đặc điểm mật độ xương suy giảm dẫn đến gia tăng nguy cơ gãy xương.
  • Telegraphic: Loãng xương – mật độ xương giảm à nguy cơ gãy xương tăng.
Tất cả slide, ngoại trừ những trích dẫn nguyên văn, nên được viết theo kiểu điện tín.


Những vấn đề liên quan đến nội dung
6. Không có thông điệp chính. Có nhiều hội nghị mà chúng ta khi nghe xong một bài thuyết trình nhưng chẳng biết diễn giả muốn nói gì, hay mình đã tiếp thu thông tin gì. Vấn đề ở đây là diễn giả đã thất bại cung cấp một thông điệp chính. Mỗi một bài thuyết trình phải có một thông điệp chính. Thông điệp chính cần phải trình bày trong một slide mà tiếng Anh gọi là money slide, hiểu nôm na là một “slide ăn tiền”. Nếu thông điệp chính không có trong bài thuyết trình thì khán giả cảm thấy mất thì giờ đến nghe vì chẳng có tiếp thu được thông tin gì xứng đáng. Do đó, trước khi soạn bài nói chuyện, diễn giả cần phải suy nghĩ cẩn thận cái money slide là gì, trước khi soạn những slide khác.
7. Chất lượng thông tin nghèo nàn. Nhiều bài thuyết trình mà trong đó diễn giả trình bày những thông tin nghèo nàn, thiếu tính liên đới đến chủ đề chính, và hệ quả là khán giả không nắm lấy vấn đề một cách logic. Làm một bài thuyết trình bằng powerpoint không phải là một thử nghiệm về kĩ năng viết, mà là kĩ năng chọn thông tin và thể hiện thông tin. Thông tin phải chính xác, đáng tin cậy, và được thể hiện một cách thích hợp. Chẳng hạn như trong khoa học, những cách thể hiện dữ liệu bằng biểu đồ bánh (pie chart) là vô dụng nhất, thiếu tính chuyên nghiệp nhất, và nhàm chán nhất.
8. Dùng hoạt hình quá nhiều. Nhiều người thích dùng hoạt hình (animation) trong bài thuyết trình. Đây là một sai lầm nghiêm trọng. Giới khoa học nói chung tương đối bảo thủ, hiểu theo nghĩa không thích đùa như trẻ con. Hoạt hình được xem là một hình thức khoe kĩ thuật của trẻ con. Hoạt hình còn làm cho khán giả phân tâm, thay vì tập trung vào thông tin thì họ lại chú ý đến những hình ảnh hay những con chữ nhảy nhót một cách … vô duyên. Cần tránh hoạt hình trong các báo cáo khoa học.
9. Dùng clipart quá nhiều. Ngoài hoạt hình, một số diễn giả có xu hướng dùng clipart một cách thái quá. Có thể dùng để minh hoạ cho một vài ý tưởng qua clipart, nhưng nếu dùng quá nhiều thì sẽ gây phản tác dụng, vì sẽ giảm sự tập trung của khán giả.
Những vấn đề liên quan đến phong cách trình bày
10. Đọc slide. Có quá nhiều diễn giả trong các hội nghị ở Việt Nam đọc slide, và đó là một “đại kị”. Khi diễn giả đọc slide, khán giả sẽ nghĩ diễn giả chỉ là một cái máy nói, không am hiểu vấn đề, và thụ động. Đọc slide làm cho diễn giả quay lưng lại với khán giả, trong khi “nhiệm vụ” của diễn giả là nói chuyện với khán giả chứ không phải nói với … slide. Đọc slide còn gây một ấn tượng phản cảm, vì khán giả nghĩ rằng diễn giả chỉ nói những gì ai đó đã soạn cho để nói (trong thực tế cũng có vấn đề này).



11. Nói chuyện không dính dáng gì đến slide. Ngược lại với đọc slide là những diễn giả nói chuyện chẳng liên quan gì đến slide đang trình chiếu. Dĩ nhiên, đây là một tín hiệu cho thấy diễn giả đang lạc đề hoặc không có tập dượt trước, nhưng cũng có thể là dấu hiệu cho thấy diễn giả không nắm vững vấn đề. Vì không nắm vững vấn đề bắt đầu … lan man. Tình trạng này xảy ra rất nhiều khi diễn giả không phải là người soạn slide (mà ai đó soạn cho).
Nên nhớ rằng khi thuyết trình khoa học, diễn giả cần phải có tạo niềm tin bằng cách trình bày những nghiên cứu hay tác phẩm của mình. Nếu trong một bài nói chuyện mà diễn giả chẳng có cái gì của mình, toàn là dữ liệu của người khác, hoặc do người khác soạn, thì khán giả sẽ nghĩ rằng diễn giả chỉ là một cái "máy nói", một con rối.
12. Không dùng laser pointer. Một trong những “bệnh” khá phổ biến ở các diễn giả Việt Nam là không dùng laser pointer. Một bài thuyết trình khoa học có nội dung không phải dễ theo dõi, nhất là có những giản đồ phức tạp minh hoạ cho một qui trình khoa học, do đó diễn giả cần phải dẫn dắt khán giả bằng cách dùng laser pointer để chỉ đến những chỗ đang nói. Không có laser pointer, khán giả sẽ rất khó theo dõi, và họ sẽ bỏ cuộc nếu sau 30 giây mà không hiểu diễn giả muốn nói gì.
Nhưng cũng nên sử dụng pointer thích hợp. Một thói quen ngược lại không dùng pointer là dùng tuỳ tiện, quơ pointer ở những vị trí chẳng liên quan gì đến slide. Có người do vô ý hay hồi hộp cứ quơ laser pointer trên trần nhà làm khán giả cứ theo dõi và buổi trình bày trở nên hài hước.
13. Nói quá giờ. Một “bệnh” cực kì phổ biến ở các diễn giả Việt Nam là nói quá giờ. Nói quá giờ cho phép là một sự bất lịch sự đối với diễn gỉa kế tiếp (có người nói nặng nề hơn là “ăn cắp” thì giờ). Nói quá giờ còn gây rối loạn đến chương trình và gây khó khăn cho ban tổ chức. Cố gắng nói đúng giờ cho phép. Một ước tính quan trọng là mỗi slide trung bình tốn 1 phút. Do đó, nếu bài báo cáo 15 phút thì diễn giả chỉ nên có 15 slides, hay tối đa là 20 slides (kể cả tựa đề, phần cảm tạ, và conflict of interest).
14. Điệu bộ khi trình bày. Tuy không phổ biến lắm, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn thấy những diễn giả có những điệu bộ không thân thiện với khán giả. Những điệu bộ này có thể kể đến như bỏ tay vào túi quần, dùng ngón tay trỏ chỉ vào khán giả, khoanh tay ngang ngực, v.v. Những động thái như thế gây ấn tượng hống hách, xem thường khán giả, nên rất phản cảm. Cần phải tuyệt đối tránh!
15. Làm chủ toạ theo kiểu dạy đời. Ngoài những “bệnh” trên, còn có một bệnh khác tôi hay thấy trong các hội nghị ở Việt Nam là vai trò của chủ toạ. Rất thường xuyên tôi thấy chủ toạ đóng vai trò tóm lược và phê bình báo cáo của diễn giả. Có chủ toạ còn lên lớp cho diễn giả. Đó là một việc làm hết sức mất lịch sự, vô lễ, vô văn hoá khoa học, và phản cảm. Có nhiều trường hợp sự việc xảy ra một cách hài hước, vì người chủ toạ nói sai (do không có cùng chuyên môn, hay chuyên môn chưa vững). Trong thực tế, chủ toạ các phiên họp khoa học có nhiệm vụ giới thiệu bài nói chuyện, điều khiển buổi họp sao cho đúng giờ, và nếu không có ai đặt câu hỏi thì chủ toạ đóng vai trò “khơi mào” câu hỏi cho diễn giả. Nên nhớ rằng người chủ toạ không có chức năng tóm lược và phê bình bài báo của diễn giả.
***
Trên đây là một số vấn đề (nhưng cũng có thể xem là “sai lầm”) trong báo cáo khoa học bằng powerpoint. Những sai lầm này đặc biệt phổ biến trong các hội nghị ở Việt Nam mà người viết bài này từng trải nghiệm trong thời gian trên dưới 10 năm qua. Sai lầm không phải là vấn đề (vì ai cũng phạm phải); vấn đề là học hỏi từ sai lầm. Học hỏi từ người đi trước là có hiệu quả nhất và nhanh nhất. Trong bài này, tôi đã trình bày một số lời khuyên để khắc phục cho mỗi sai lầm. Tôi đã từng học hỏi từ những sai lầm như thế này. Nhiều đồng nghiệp và nghiên cứu sinh của tôi đã học từ những lời khuyên này và họ đã thành công. Do đó, tôi hi vọng rằng những lời khuyên trong bài này sẽ giúp ích cho các bạn thành công trong lần báo cáo sắp tới.

N.V.T Nguon NVT

Thứ Hai, 5 tháng 11, 2012

Cách viết bình duyệt (peer review)

Tiếp theo bài “Cách viết trả lời bình duyệt”, kì này tôi sẽ nói về cách thức viết bình duyệt (peer review). Bất cứ nhà khoa học nào cũng có lần đóng vai trò duyệt bài cho đồng nghiệp. Duyệt bài của người khác là một trong những đặc quyền (và đặc lợi) của nhà khoa học, nên nhiệm vụ này phải được nhận lãnh một cách nghiêm túc.
Hai thí nghiệm thú vị
Bố cục và nội dung trình bày sơ sài-đơn giản không mang tính một bài báo khoa học. Các nhận định cần đi cùng minh chứng, các phát hiện phải có lập luận rõ ràng. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận chưa rõ. Cần trình bày rõ về phương pháp luận, đo lường các biến, số liệu từng biến phải có kiểm định thống kê, đo lường mối quan hệ giữa các biến.“
Tôi có cảm giác tác giả không am hiểu lĩnh vực nghiên cứu nên đã chọn đề tài quá cũ. Phương pháp có sai lầm về lý luận. Kết quả không thuyết phục.”
Hai đoạn trên đây là một trong những kết quả “thí nghiệm” mà hai nhà nghiên cứu ở VN đã thực hiện. Đó là nhận xét của hai chuyên gia trong lĩnh vực khoa học xã hội (phần trên) và y học (phần dưới) về hai bài báo đã được gửi cho 2 tập san chuyên ngành. Cả hai bài báo đều bị từ chối đăng trên tập san khoa học trong nước. Trong thực tế, cả hai bài báo đều đã được công bố trên 2 tập san quốc tế có bình duyệt (peer review) và uy tín trong chuyên ngành. Cả hai bài sau khi công bố đã thu hút 10 trích dẫn (citations) chỉ trong vòng 1 năm. Hai đồng nghiệp trên muốn tiến hành thí nghiệm để chứng minh rằng rất khó làm khoa học ở Việt Nam vì “văn hoá khoa học” ở Việt Nam có vấn đề.
Vấn đề ở đây là qui trình bình duyệt bài báo. Trong qui trình này, người bình duyệt đóng vai trò quan trọng, vì ý kiến của họ có thể quyết định “số phận” bài báo. Nhưng để có tư cách bình duyệt bài báo, chuyên gia bình duyệt phải là người có làm nghiên cứu trong thực tế VÀ có công bố quốc tế. Đó là tiêu chuẩn tối thiểu (ngoài những tiêu chuẩn khác). Ở Việt Nam chúng ta có những chuyên gia như thế nhưng có lẽ không nhiều. Chính vì thế mà có nhiều người dù chưa bao giờ làm nghiên cứu nghiêm chỉnh và cũng chưa bao giờ có công bố quốc tế một cách độc lập nhưng lại đóng vai trò quyết định “sinh mệnh” bài báo khoa học của người khác. Đó là một điều đáng tiếc.
Có lẽ vì chưa có kinh nghiệm bình duyệt, nên các chuyên gia đưa ra những nhận xét rất không đúng với chuẩn mực. Nếu bạn là tác giả bài báo, có lẽ bạn sẽ rất lúng túng với hai nhận xét trên. Vấn đề của hai nhận xét trên là quá chung chung, không có gì cụ thể để tác giả có thể căn cứ vào đó mà chỉnh sửa. Nhận xét thứ nhất tỏ ra lên lớp tác giả, và đó là một điều cấm kị trong bình duyệt. Nhận xét thứ hai thì lại mang tính cá nhân (cho rằng tác giả “không am hiểu lĩnh vực nghiên cứu”), lại thêm một điều cấm kị trong bình duyệt khoa học. Nhưng thật ra đó là nhận xét sai, bởi vì tác giả là người có kinh nghiệm dồi dào trong lĩnh vực nghiên cứu và có công bố quốc tế nhưng không có tước danh GS/PGS. Kết quả thí nghiệm trên cho thấy vẫn còn một khoảng cách đáng kể về văn hoá khoa học, đặc biệt là bình duyệt bài báo, giữa tập san ở Việt Nam và quốc tế. Bài này, do đó, có mục đích chỉ dẫn cách viết một báo cáo bình duyệt sao cho chuyên nghiệp và mang tính giúp đỡ tác giả. 
Bình duyệt bài báo khoa học
Bình duyệt trong khoa học là một qui trình rất quan trọng. Một bài báo không qua bình duyệt thì khó có thể nói đó là một bài báo khoa học. Bình duyệt giúp cho bài báo tốt hơn, và giúp cho ban biên tập đi đến quyết định tốt hơn. Trong vai trò ban biên tập tập san khoa học, tôi mới nhận ra một thực tế là nhiều đồng nghiệp chưa được trang bị kĩ năng duyệt bài. Thậm chí, họ không biết cách viết một bài bình duyệt cho đúng với chuẩn mực khoa học.
Bình duyệt một bài báo khoa học thật ra là có 2 phần. Phần nhận xét dành cho ban biên tập (cụ thể là tổng biên tập), và phần nhận xét dành cho tác giả. Hai phần này viết rất khác nhau, và nội dung cũng khác nhau. Phần nhận xét cho ban biên tập phải ngắn, gọn (chỉ 300 chữ là tối đa) và nói thẳng, nói thật ý kiến của mình, kể cả đề nghị từ chối hay chấp nhận bài báo. Phần nhận xét cho tác giả thì dài hơn, chi tiết hơn, và … lịch sự hơn.
Báo cáo cho ban biên tập
Có thể nói rằng phần nhận xét dành cho ban biên tập là một bản tóm lược phần nhận xét dành cho tác giả, nhưng có thêm phần đề nghị chấp nhận hay từ chối. Trong phần nhận xét dành cho tác giả thì tuyệt đối không có phần đề nghị chấp nhận hay từ chối. Đây là một vài ví dụ về nhận xét dành cho ban biên tập:
Vài ví dụ về bình luận riêng cho ban biên tập
  • The authors studied the genetics of QUS measurements in a sample of 6056 individuals from 43 extended pedigrees.   They found that genetic factors account for between 29 and 55% variance of QUS measurements. This study is a welcome contribution to the literature of the genetics of osteoporosis, because the genetics of QUS measurements has not been well documented. The authors have used sophisticated and appropriate method of analysis. The presentation of data is adequate. I have made some minor suggestions to improve the manuscript. Overall, I consider that this manuscript is very good, and recommend that it should be accepted for publication in XXX.
  • It is a good, thoughtful paper, even though it’s a description of known phenotypes. The area is important, but the key observation of XX on YY was already published in ref 10, itself a worthy paper. The ZZ part is new though and very important to the overall conclusion. So, this paper will please to no end the nursing home readership of the JCI and horribly the under 45 crowd, two worthy accomplishments that woild justify publication in their own right.
  • This paper uses a novel and informative strategy to investigate a relevant question regarding XX action of YY. If interpretive issues can be satisfactorily addressed, the paper would be suitable for publication in XXX.

Báo cáo cho tác giả
Phần báo cáo dành cho tác giả chi tiết hơn báo cáo cho ban biên tập. Nguyên tắc số 1 của báo cáo dành cho tác giả là giúp họ nhận ra điểm mạnh và điểm yếu (kể cả khiếm khuyết) trong nghiên cứu để họ chỉnh sửa. Trong báo cáo dành cho tác giả, tuyệt đối không nói đến đề nghị cho công bố hay cho công bố (vì đó là ý kiến dành cho ban biên tập). Dĩ nhiên, tác giả không đọc được báo cáo dành cho ban biên tập. Theo thông lệ, báo cáo bình duyệt dành cho tác giả phải có 3 phần chính như sau:
  • Tóm lược nội dung chính của bài báo, và đưa ra một số bình luận chung (general comments). Phần này chỉ một đoạn văn ngắn khoảng 100 từ;
  • Nhận xét cụ thể (specific comments). Trong phần này, người duyệt bài chia ra thành 2 nhóm: những nhận xét mang tính quan trọng (major comments), và những nhận xét mang tính nhẹ (minor comments);
  • Kết luận.
Một bài bình duyệt tốt, trong phần hai (nhận xét cụ thể) phải trả lời những câu hỏi sau đây:
  • Công trình có đóng góp gì vào tri thức chuyên ngành;
  • Tựa đề bài báo có phản ảnh đúng nội dung của bài báo;
  • Bản tóm tắt ngắn gọn mà phản ảnh được những nét chính của nghiên cứu;
  • Duyệt qua y văn hay những nghiên cứu trước một cách đầy đủ;
  • Mục tiêu phát biểu có rõ ràng và có giả thuyết kèm theo hay chỉ là nghiên cứu mô tả ;
  • Nghiên cứu có đáp ứng tiêu chuẩn về đạo đức khoa học;
  • Mô tả phương pháp nghiên cứu một cách đầy đủ sao cho đồng nghiệp có thể lặp lại;
  • Phần kết quả trình bày có bám sát theo mục tiêu nghiên cứu; dữ liệu trình bày có rõ ràng; và
  • Phần bàn luận có chỉ ra những yếu kém và điểm mạnh của nghiên cứu, giải thích cơ chế và ý nghĩa của phát hiện.
Trong thực tế, không phải chuyên gia bình duyệt nào cũng có thì giờ để viết một bản nhận xét chi tiết, nhưng nói chung phần lớn đều bám sát theo những câu hỏi đó. Dưới đây là một ví dụ bình duyệt dành cho tác giả. Phần đầu là bình luận chung, phần hai là những nhận xét cụ thể, kể cả phần tiếng Anh:
General comments
The authors conducted a genetic association study on 281 women aged between 45 and 65 of Chinese background to test the hypothesis that polymorphisms within the XX gene is associated with BMD. They found a significant association between a G894T gene polymorphism and serum testosterone and osteocalin, but not with. The study’s hypothesis and concept are interesting, but I am afraid that the finding was compromised by several methodological issues. Here I would like to offer some comments as follows:
Specific comments
1. The authors should provide much more convincing case why the study was necessary. At present the rationale for this study was based on a rather flimsy and unconvincing evidence. I accept that the hypothesis is good, but I feel that the rationale for the study design has not been spelt out convincingly.
2. The abstract is too long. It should be limited to 250-300 words. Please check the Journal’s guidelines.
3. The calculation of sample size was based on a grossly optimistic assumption (eg allowable error of 20% for a prevalence of 40%).   It is not clear what does “population morbidity rate of osteoporosis” mean (page 7).
4. According to the WHO recommendation, femoral neck BMD, not lumbar spine BMD, is used for making a diagnosis of osteoporosis.   Therefore, the diagnostic statement (page 8) is incorrect. I am concerned that the data have to be re-analyzed because the authors have used an incorrect criterion. 
5. The statistical method was incorrect. This was not designed as a case control study, but rather a simple cross-sectional study. Therefore, the Chi square test of allelic frequency between “patients” and “controls” is inappropriate. Anyway, the authors should consult an experienced biostatistician or genetic statistician to re-analyze the data.
Some minor comments:
6. The authors misunderstand the difference between incidence and prevalence (page 5).
7. Do the authors mean “Qiagen” or “Qegen” (page 9)?
8. There are several linguistic errors, presumably due to the fact that none of the authors is a native English speaker. It is recommended that the authors seek editorial assistance from a native English colleague to check the manuscript.
9. Several references are incorrect or inappropriate.   For instance ref #17 (page 7) is not appropriate. Please check all references and make sure that they are appropriately cited.

Có những báo cáo chỉ 1 trang, nhưng cũng có báo cáo dài cả 10 trang. Trong thực tế, tôi và đồng nghiệp Tây Nguyên đã nhận một báo cáo mà chúng tôi trả lời tốn đến 16 trang giấy! Có những chuyên gia rất tỉ mỉ, chỉ ra những sai sót về tiếng Anh, nhưng cũng có chuyên gia chỉ quan tâm đến nội dung và phương pháp. Nhưng tất cả đều tuân thủ theo những qui ước trong việc bình luận. Những qui ước đó có thể mô tả dưới đây. 
Qui ước và văn hoá bình duyệt
Thái độ và phong cách bình duyệt cũng là một yếu tố quan trọng. Điều cần ghi nhớ là người bình duyệt đang duyệt cho đồng nghiệp của mình, và theo tôi, nên tỏ ra kính trọng và “tử tế” với đồng nghiệp. Kinh nghiệm cá nhân cho thấy, người bình duyệt chuyên nghiệp cần phải có 5 đặc tính: đúng thời hạn, lịch sự, nhận xét cụ thể, nhận xét thân thiện, và không đòi hỏi quá đáng.
1. Đúng thời hạn
Đối với tác giả, từ ngày nộp bản thảo bài báo đến ngày nhận được nhận xét của các chuyên gia bình duyệt là một nỗi lo thấp thỏm. Lo vì không biết công trình của mình được tiếp nhận ra sao, và cơ hội được công bố là cao hay thấp ra sao. Trước đây (thời chưa có internet) thời gian từ ngày nộp bài báo đến khi nhận được lá thư hồi đáp đầu tiên của tập san kèm theo nhận xét của các chuyên gia bình duyệt là khoảng 2-3 tháng, nhưng ngày nay thì thời gian rút ngắn hơn nhiều, chỉ còn khoảng 2-4 tuần.
Có nhiều tập san, ban biên tập các tập san liên tục hối thúc các chuyên gia bình duyệt nộp bản nhận xét trong vòng 2 tuần. Do đó, khi đã nhận lời bình duyệt thì cần phải giữ đúng thời hạn cho phép. Nếu có trễ vài ngày thì cũng không sao, nhưng trễ cả tuần trở lên thì được xem là một sự thiếu trách nhiệm và mất lịch sự.
2. Lịch sự
Trong văn hoá khoa học, người ta thường cư xử rất lịch sự với nhau, nhất là trên văn bản. Trong hội nghị, các nhà khoa học có thể gắt gỏng với nhau trong chất vấn và trả lời, nhưng trên văn bản thì thường rất lịch sự. Không biết các ngành khác thì sao, nhưng trong ngành y, ai đó nói đồng nghiệp “sai” được xem là thô lỗ, là một thái độ khó chấp nhận được. Cho dù đồng nghiệp có thật sự sai, người duyệt bài cũng nên tìm một cách nói khác nhẹ nhàng và “văn minh” hơn, chẳng hạn như “I consider that your method is not universally acceptable in the osteoporosis community. I strongly suggest that the authors consider an alternative approach” (Tôi nghĩ rằng phương pháp của các tác giả không được mọi người trong ngành loãng xương chấp nhận. Tôi đề nghị tác giả nên xem xét một cách tiếp cận khác). Nếu tác giả kết luận sai dữ liệu, thì một cách nói lịch sự là “The authors’ conclusion is not consistent with the data” (Kết luận của tác giả không phù hợp với dữ liệu).
Có khi một nhận xét khiếm nhã có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của một người. Chẳng hạn như nhận xét sau đây (mà tôi trích từ sách khoa học, tôi không còn ghi nguồn):
The claims made by the author are neither novel nor convincing. The study is of little or no interest to the community, and is probably inaccessible to anyone outside the author’s presumably very small research group. Moreover, I believe there are no further experiments that would strengthen the paper.” (Những phát biểu của tác giả không có gì mới và cũng chẳng thuyết phục. Công trình nghiên cứu thuộc vào loại ít người trong cộng đồng quan tân, và có lẽ chẳng ai ngoại trừ nhóm của tác giả tiếp cận được. Hơn thế nữa, tôi tin rằng không cần phải làm thêm thí nghiệm để nâng cao bài báo).
Có thể nói đó là một nhận xét quá tiêu cực. Có thể nội dung bài báo không tốt, nhưng cũng nên tìm một cách khác viết lịch sự hơn và tích cực hơn. Viết như thế là huỷ diệt một tiềm năng.   Đối với những nhận xét tích cực, nên bắt đầu bằng một giọng văn tích cực, rồi sau đó mới chất vấn:
The author should be commended for employing data on x in order to analyze y. Although these data present a rich source of information for studying y, they remain largely underutilized, so it is good to see them being used here. (Tác giả nên được tuyên dương vì đã sử dụng dữ liệu X để phân tích Y. Mặc dù những dữ liệu này cung cấp một nguồn thông tin dồi dào để nghiên cứu Y, nhưng vẫn còn ít được sử dụng. Do đó, đây là một điểm hay của tác giả).
Unfortunately however, the paper, as it is, fails to make an important contribution to the literature, for two reasons. First, the analysis suffers from a number of methodological short-comings, which are summarized in the “main comments” section below. Second, most of the empirical results are quite obvious. (Tuy nhiên, bài báo như hiện nay thất bại trong việc đóng góp quan trọng cho y văn, vì hai lí do: thứ nhất, phần phân tích có vài khiếm khuyết về phương pháp, mà tôi đã tóm lược trong phần “bình luận chính” dưới đây. Thứ hai, phần lớn những kết quả là khá hiển nhiên).
Having said that, there is one result that seems non-obvious and interesting, namely that ... In fact, the paper could be improved significantly if the authors could answer the following questions ... If the answer is “yes” to these questions, then these aspects could be further explored. For example, it would be interesting to identify ... (Dù vậy, có một kết quả hình như không hiển nhiên và thú vị, cụ thể là … Thật ra, bài báo có thể cải tiến một cách đáng kể nếu tác giả có thể trả lời những câu hỏi sau đây … Nếu câu trả lời là “có” cho những câu hỏi này thì những khía cạnh này cần được khai thác thêm).

Không bao giờ viết những nhận xét về cá nhân tác giả. Chẳng hạn như không viết rằng tác giả thiếu chuyên môn, không làm trong chuyên ngành, xuất thân từ một viện/trường không có tiếng, v.v. Viết như thế là dễ bị ban biên tập xem là ngụy biện và tấn công cá nhân, bởi vì vấn đề là nội dung bài báo chứ không phải cá nhân tác giả. Vả lại, người duyệt bài cũng không biết hết bằng cấp hay chuyên môn của các tác giả, nên viết bình duyệt như thế rất … nguy hiểm. Trong thực tế, những chuyên gia có kinh nghiệm và chững chạc, không ai viết về cá nhân cả, nhưng trong thực tế vẫn có vài người mới tham gia nghiên cứu khoa học nên có thái độ ấu trĩ. Không bao giờ tỏ thái độ ấu trĩ trong bình duyệt công trình của đồng nghiệp!
3. Nhận xét cụ thể
Thỉnh thoảng, tôi vẫn thấy những bình luận và nhận xét có thể nói là vô bổ. Tiêu biểu cho những nhận xét này là there are too many errors in the manuscript that need attention (có quá nhiều sai sót trong bản thảo cần phải chú ý), a number of English expressions in the manuscript are odd (một số câu chữ tiếng Anh không chuẩn), v.v. Những nhận xét như thế cho thấy người duyệt bài hoặc là không đọc kĩ, hoặc là chỉ nói bâng quơ, gieo một sự nghi ngờ cho ban biên tập. Những nhận xét đó chẳng những được xem là thiếu thân thiện, mà còn thiếu tính chuyên nghiệp. Nếu bản thảo có nhiều lỗi hay sai sót mà người duyệt bài không có thì giờ chỉ ra hết, thì ít ra cũng phải chỉ ra một số sai sót tiêu biểu để tác giả chỉnh sửa hay trả lời.
Một vài ví dụ như sau có thể minh hoạ cho sự khác biệt giữa nhận xét chung và nhận xét cụ thể:
  • Lines 40–42: this sentence seems to be in contrast with the Conclusion section. Please clarify. Nhận xét như thế là quá chung chung, nên sửa lại và chỉ ra cụ thể số dòng: In the Abstract (lines 40–42) the authors say that x and y were effective, but in the Conclusions it seems that only x is effective.
  • Line 51: . . . XXX represents the major repository of integration and accumulation of. . . This sentence is not clear. Nên sửa: I am not sure how a repository can contain “integration.” What exactly do the authors mean by “integration” in this context?
4. Tránh nhận xét quá khắt khe, nên tỏ ra xây dựng
Điều này có vẻ hơi bất bình thường, nhưng tôi đã từng thấy nhiều chuyên gia bình duyệt đưa ra những bình luận rất khắt khe mà không có mục đích nào cụ thể cả. Có người dành cả nửa trang giấy để bắt bẻ về chấm câu, văn phạm, ngữ vựng tiếng Anh, mà ngay cả những nhận xét đó cũng không hợp lí. Có lần tôi bắt gặp một nhận xét bài báo của các đồng nghiệp Việt Nam rằng dùng chữ asymptomatic là không chuẩn, nhưng chính người nhận xét dùng chữ … sai. Thêm vào đó là những nhận xét như “This is bad …” hay “This study is flawed …” cũng không giúp ích gì cho tác giả và ban biên tập.
Sau đây là vài nhận xét mang tính xây dựng:
  • the aim of the work is not clear—I am not completely sure whether this is simply a validation of a widely-used bioassay or a field study. If it is indeed a validation, then I am not sure of its utility, given that many cases have already been reported in the literature (as cited by the authors themselves). If it is a field study, then it might be useful to add more parameters.
  • the parameters that the authors measured are too similar to each other and there are too few of them (only four). I would recommend using at least six parameters.
  • The sediments that the authors chose are not very revealing in terms of metal pollution. What about using sediments from .... ?
Nên tỏ ra xây dựng trong nhận xét. Nếu tác giả dùng một phương pháp chưa chuẩn hay không được cộng đồng chuyên ngành sử dụng nữa, thì người duyệt bài nên đề nghị một phương pháp khác. Nếu có quá nhiều sai sót về tiếng Anh, người duyệt có thể đề nghị tác giả nên tham vấn một chuyên gia am hiểu về tiếng Anh. Những nhận xét như thế sẽ giúp cho tác giả rất nhiều để cải tiến bản thảo.
Tiếng Anh có khi là một vấn đề nan giải. Trong vài năm gần đây, tôi duyệt bài từ các tác giả Á châu (nhất là China) rất nhiều. Ngoài một thiểu số viết tiếng Anh tốt, phần đa số là quá kém. Nhưng điều đó không có nghĩa là khoa học của họ kém. Kinh nghiệm tôi thì tuỳ tình huống mà viết bình luận.
  • Nếu quả thật bài báo có quá nhiều sai sót và người bình duyệt chắc chắn về điều này thì cũng có cách viết sao cho hợp lí và xây dựng: This paper needs a thorough revision by a native English proofreader (Bài báo cần chỉnh sửa toàn diện bởi một người bản xứ nói tiếng Anh).
  • Nếu có những sai sót về đánh vần: There are a few typos that need correcting. I suggest the authors turn on the spell check in Word (Có nhiều sai sót trong việc đánh vần cần phải chỉnh sửa, tôi đề nghị tác giả nên bật nút kiểm tra đánh vần “on” trong Word).
  • Nếu có những sai sót về văn phạm: I noticed the following grammatical mistakes [đưa ra danh sách] but otherwise the English seems fine (Tôi chú ý thấy có những sai sót về văn phạm [….] nhưng ngoài những lỗi đó ra thì tiếng Anh có vẻ tốt).
  • Nếu không chắc chắn có sai sót, và không chắc chắn cách phát hiện: I don’t feel qualified to judge the English, as it is not my mother tongue; however, I do feel that in some parts the English is not up to standard and is sometimes rather ambiguous. (Tôi không cảm thấy đủ tư cách để đánh giá tiếng Anh, vì tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ của tôi; tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng một số câu chữ tiếng Anh chưa đạt chuẩn và có khi mù mờ).
  • Nếu tiếng Anh của mình tốt, nhưng vẫn không chắc chắn bài báo có sai tiếng Anh hay không: 
The English seems fine to me, but I am not a native speaker (Tiếng Anh có vẻ tốt đối với tôi, nhưng tôi không phải là người nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ).
5. Không đòi hỏi quá đáng
Đôi khi các chuyên gia bình duyệt muốn các tác giả phải làm và viết theo ý của mình. Họ yêu cầu tác giả phải làm thí nghiệm này, thêm phân tích kia, viết như thế nọ. Nói cách khác, họ muốn tác giả đáp ứng ý muốn của họ. Trong trường hợp này, ban biên tập sẽ không “mặn mà” với kiểu bình duyệt đó. Có lần chúng tôi (tôi và đồng nghiệp Việt Nam) nộp bản thảo bài báo về gãy xương cột sống, nhưng một chuyên gia bình duyệt đòi hỏi chúng tôi phải trình bày cả dữ liệu về mật độ xương! Nếu làm theo yêu cầu này, bài báo sẽ dài gấp 2 lần, và cái thông điệp sẽ bị loãng. Vì thế chúng tôi phải lịch sự từ chối không làm theo yêu cầu đó, và ban biên tập chấp nhận. Vấn đề là bài báo họ đang duyệt, và ban biên tập yêu cầu họ duyệt bài báo, chứ không yêu cầu họ lên lớp hay hướng dẫn tác giả. Do đó, không nên đòi hỏi tác giả một cách quá đáng. Bảng dưới đây trình bày vài ví dụ để so sánh:
Thay vì viết
Thì nên viết
It is absolutely wrong to state that x is the cause of y
I feel that / As far as I can see, / In my opinion / I believe / Based on my knowledge of the topic I would say that the assertion that x is the cause of y may be open to discussion.
The presentation of results must be totally modified.

I would suggest that the results be presented in a different way; for example, a table could be used rather than a figure. This would make the results stand out better and make it easier for the reader to understand the importance of them.
The description of methods is incomplete and does not permit a correct evaluation of the trials.

The description of the methods needs more details. For example, what criteria were used to select the three byproducts? Why was the field test conducted with KS only? Which parameters did the Authors evaluate in the field test and how?
The methodologic part refers to rather old methods; how can they not be aware of the new procedures existing in the analytical literature?
The authors may not be aware that there are actually some new procedures existing in the analytical literature. They might try reading ....
Bình duyệt kín là một qui trình bảo mật khá nghiêm ngặt. Theo qui định của tập san thì tất cả những văn bản và bản thảo của tác giả mà người duyệt bài có trong tay khi bình duyệt phải huỷ bỏ ngay sau khi gửi bài bình duyệt. Trong thực tế, có những “con cừu đen” không làm theo qui định này, mà giữ lại để gửi cho đồng nghiệp khác, và đó là một vi phạm khoa học nghiêm trọng. Ngoài ra, còn có tình trạng kì thị, mà có khi tác giả không biết, và đó cũng là bài học cho những người “xem mặt mà bắt hình dong”. Nói chung, theo kinh nghiệm cá nhân tôi, để làm một chuyên gia bình duyệt tốt đòi hỏi một bản lĩnh văn hoá khoa học tốt.
Trong văn hoá khoa học, không có tình trạng kì thị, đố kị đồng nghiệp, và nhất là phải đối xử tử tế với nhau. Nói thì dễ nhưng thực hành có khi không dễ (1). Khoa học là một môi trường bình đẳng và dependent origination, hiểu theo nghĩa chúng ta bình duyệt lẫn nhau trong chuyên ngành, và sự nghiệp của chúng ta phụ thuộc lẫn nhau. Để tạm kết thúc bài này, tôi chỉ nhắc lại một ý trước đây rằng trong cuộc sống đa chiều có những mối liên hệ chằng chịt và phức tạp, không có cá nhân nào làm nên tất cả. Mỗi chúng ta đều phải phụ thuộc vào người khác để tồn tại. Trong khoa học, mỗi nhà khoa học phải đứng trên vai của người đi trước hay phụ thuộc vào đồng nghiệp để có được sự nghiệp ngày hôm nay. Thật là ngây thơ nếu tự huyễn hoặc mình là quan trọng nhất chỉ vì đóng vai trò duyệt bài của người khác. Ý kiến của chuyên gia bình duyệt có thể ảnh hưởng đến tương lai của một đồng nghiệp khác, và xin nhắc lại là cần phải nhận lãnh trách nhiệm rất nghiêm chỉnh.
Bình duyệt bài cho đồng nghiệp là một đặc quyền và đặc lợi. Đặc quyền là vì người duyệt bài biết được đồng nghiệp mình làm gì và làm ra sao. Đặc lợi là vì làm chuyên gia bình duyệt được xem là một thành tích khoa học, được phép ghi trong lí lịch là “expert reviewer) cho tập san. Được ban biên tập của tập san mời bình duyệt là một vinh dự, một cách “công nhận” chuyên môn, và do đó, nên cần phải tỏ ra nghiêm chỉnh trong công việc duyệt bài.
N.V.T
(1) Nhớ lúc còn trẻ, và lúc đó cũng đã có “tên tuổi” nên tôi được khá nhiều tập san mời bình duyệt. Lúc đó có lẽ vì tôi quá lí tưởng giống như perfectionist nên đòi hỏi các tác giả phải làm nhiều việc, và có khi khắt khe (nhưng chưa bao giờ đố kị hay xem thường họ). Có lần sếp tôi đọc được bản bình duyệt, ông kêu vào phòng và nhắc nhở rằng phải tử tế với đồng nghiệp, rằng trên thế giới này không bao giờ có nghiên cứu nào hoàn hảo cả, nên phải thông cảm với tác giả. Ông hỏi một câu rằng “Nếu mai kia mốt nọ, mày gặp tác giả đó trong hội nghị, mày phê bình như thế, mày có thấy ngượng không?” Câu này làm tôi nhớ mãi và thay đổi hoàn toàn cách tôi viết bình duyệt sau này.
Nguồn nguyenvantuan.net

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

Cách trả lời bình duyệt (response to peer review)


In Email
http://sciencemediawatch.files.wordpress.com/2011/02/poor-review-and-peer-review.jpgTiếp theo loạt bài chỉ dẫn về cách viết bài báo khoa học, kì này tôi sẽ nói về cách thức trả lời bình duyệt của các chuyên gia. Trả lời bình duyệt của các chuyên gia cũng là một kĩ năng quan trọng của một nghiên cứu sinh và nhà khoa học, vì số phận bài báo có khi tuỳ thuộc vào cách trả lời.

Bình duyệt của đồng nghiệp (peer review) là bước thứ hai trong qui trình xuất bản bài báo khoa học. Bước thứ nhất là nộp bài, và nếu bài báo có triển vọng thì sẽ được ban biên tập gửi cho 2-3 chuyên gia trong ngành bình duyệt. Bước thứ hai, sau khi nhận được bình duyệt, tác giả (hay nhóm tác giả) có nhiệm vụ phải trả lời những bình luận, những phê bình, hay đề nghị của các chuyên gia. Nếu tác giả trả lời đạt, thì ban biên tập có thể quyết định chấp nhận bài báo; nếu trả lời chưa đạt thì bài báo có thể gửi trả lại (tức là bác bỏ). Do đó, bước này (trả lời bình duyệt) rất quan trọng, không thể xem thường được.
Đối với những người mới bước vào “nghiệp” nghiên cứu sinh, việc bị các chuyên gia phê bình là một kinh nghiệm không mấy tốt. Có lần một nghiên cứu sinh của tôi nhận được bình duyệt từ 3 chuyên gia, và đọc xong cô ấy … khóc ròng. Cô ấy cầm bản báo cáo của 3 chuyên gia cho tôi xem, và hỏi phải làm gì bây giờ. Trước nước mắt thú thật tôi cũng lúng túng chưa biết phản ứng ra sao, và chỉ khuyên bình tĩnh, cứ bỏ đó một bên, và tìm cái gì đó để khuây khoả đôi ba ngày, rồi sẽ ngồi xuống và tìm cách đối phó. Nhưng khi đọc xong các bình luận và phê bình, tôi thấy ngoài vài chỗ phê phán một cách thiếu công bằng, phần còn lại cũng không quá khắc khe. Bài học đối với những người mới vào nghiên cứu là lúc nào cũng bình thản trước những phê phán và đối phó một cách đúng đắn, không nên để cho cảm tính chi phối.
http://genomicenterprise.com/blog/wp-content/uploads/2010/09/Peer-Review-Cartoon2.jpg
Peer review (bình duyệt bởi đồng nghiệp) là một qui trình không thể thiếu trong khoa học. Từ khi bản thảo được gửi đi đến khi được chấp nhận là một hành trình gian nan. Bức tranh hoạt hoạ này cho thấy tác giả (người mặc áo trắng đang cầm bản thảo), phải qua nhiều chuyên gia bình duyệt và những người này có nhiệm vụ giống như "đao phủ", chỉ khi nào tác giả qua được tất cả đao phủ này và  người mặc áo thụng đen cầm cái lưỡi hái to (tổng biên tập) thì bài báo mới được chấp nhận, và ... ăn mừng.
Một điểm cần ghi nhớ khi trả lời các chuyên gia bình duyệt là sự bất bình đẳng giữa tác giả và họ. Theo qui chế của bình duyệt kín, tác giả không biết danh tánh các chuyên gia. Chỉ có ban biên tập biết họ là ai. Thật ra, tất cả tác giả biết là họ là người cùng chuyên ngành, rất có thể là thành viên của ban biên tập. Nhưng họ biết tác giả là ai (qua tên họ, nơi làm việc, v.v.). Điều này dẫn đến một sự bất lợi là họ có thể tỏ ra mất lịch sự (thậm chí vô lễ) với tác giả, nhưng tác giả thì không thể hành xử mất lịch sự với họ. Trong điều kiện như thế, có một số qui tắt trả lời mà tác giả cần phải nằm lòng. Những qui tắc đó là trả lời một cách đầy đủ, lịch sự, và có chứng cứ.
Qui tắc 1: trả lời một cách đầy đủ. “Đầy đủ” ở đây phải hiểu theo nghĩa trả lời tất cả những câu hỏi (bất kể câu hỏi vô lí như thế nào), và sao chép nguyên văn những gì các chuyên gia viết (cho dù họ viết sai chính tả). Sao chép lại nguyên văn bình luận của người duyệt bài cũng là cách bắt buộc tác giả phải “lắng nghe” những gì người duyệt bài nói, và giúp tác giả phân định bao nhiêu điểm trong câu hỏi.
1. The rationale for stratifying the analysis by sex is not presented, and is not clear to me. Was this pre-specified? At the least, the results of the analysis for all participants combined should be presented as the primary analysis
Response: The prevalence of TB is higher in men than in women. Our previous study suggested that the prevalence of vitamin D insufficiency was higher in women than in men. Therefore, we pre-specified the analysis by sex. We do not think a combined analysis is meaningful here, because it could mask the sex-specific association.
“2. The authors state that association that they report cannot be interpreted as causal, and yet conclude the paper by suggesting that supplementation may have a role in prevention / treatment – this is inconsistent.”
Response: We have re-written the conclusion to be more consistent with the data: “Considering findings from previous work, and given the current epidemics of vitamin D insufficiency in the world and in Vietnam, the present finding warrants further studies to determine whether vitamin D supplementation can have a role in the prevention and treatment of tuberculosis in developing countries.”

Trong ví dụ trên, những câu trong ngoặc kép là sao chép nguyên văn của người duyệt bài, và "Response" là phần trả lời của tác giả. Thỉnh thoảng, tác giả cũng nên tỏ ra lịch sự bằng một câu mởi đầu, như "We thank the reviewer for taking time to consider our work.  Here, we would like to address the reviewer's concerns as follows:" (Chúng tôi cám ơn người duyệt bài đã bỏ thời gian xem xét bài báo của chúng tôi.  Ở đây, chúng tôi muốn trả lời những quan tâm của người duyệt như sau). Một câu như thế sẽ làm cho người duyệt bài thấy công lao mình bỏ ra không ... phí.
Ngay cả khi người duyệt bài khen bài báo, tác giả cũng cần nên trả lời. Trong trường hợp được khen, tác giả chỉ cần viết một cách ngắn gọn như “We appreciate the reviewer’s positive comment on our work. We also think that the work is a meaningful contribution to the literature” (Chúng tôi ghi nhận bình luận tích cực của bạn. Chúng tôi cũng nghĩ rằng công trình này thể hiện một đóng góp có ý nghĩa vào y văn).
Qui tắc 2: trả lời một cách lịch sự. Nên nhớ rằng tất cả các chuyên gia duyệt bài làm việc hoàn toàn tình nguyện, họ không nhận một thù lao hay đồng lương nào cả. Họ phải bỏ khá nhiều thì giờ để đọc, đối chiếu và viết bình luận. Ngoại trừ một số nhỏ (có thể rất nhỏ) chuyên gia hẹp hòi và tỏ ra ấu trĩ, phần lớn các chuyên gia là đồng nghiệp đều có nhã ý giúp đỡ chứ không phải đả phá.
Tác giả có quyền bất đồng ý kiến với người duyệt bài, nhưng cách biểu hiện bất đồng ý kiến sao cho người duyệt bài cảm thấy mình được trân trọng. Tác giả cần phải tránh thái độ (hay tỏ ra) ngạo mạn, phách lối, và tuyệt đối không được xúc phạm. Tránh những câu như “We totally disagree” (chúng tôi hoàn toàn bất đồng ý kiến), hay “The reviewer obviously does not know this field” (người duyệt bài hiển nhiên không am hiểu lĩnh vực này). Thay vì viết như thế, tác giả có thể viết lịch sự hơn như we agree with the reviewer …, but (chúng tôi đồng ý với người duyệt, nhưng …). Sau đây là một số câu thông thường cho tình huống bất đồng ý kiến:
  • We agree with the reviewer that …, but
  • The reviewer is correct to point out …, yet
  • In accordance with the reviewer’s suggestions, we have now changed this sentence to read …
  • While we agree with the reviewer that …
  • It is true that …, but
  • We acknowledge that our paper might have been …, but
  • We too were disappointed by the …, but
  • We agree that this is an important area that requires further work …
  • We support the reviewer’s assertion that …, although
  • With all due respect to the reviewer, we felt that this point is not consistent with current data …
Qui tắc 3: trả lời với bằng chứng. Quan trọng nhất trong văn bản trả lời các bình duyệt là bằng chứng. Thay vì chỉ nói “Chúng tôi không đồng ý”, thì tác giả nên thêm lí do tại sao không đồng ý, nhưng tốt hơn nữa là cung cấp bằng chứng để làm cơ sở cho luận điểm của mình. Bằng chứng có thể là những dữ liệu đã được công bố trước đây, nhưng cũng có thể là một tài liệu tham khảo.
6. It is stated that the ELISA cannot determine 25(OH)D2. I agree this is unlikely to be a significant confounder of the analysis. However in the discussion it is then stated without showing data that 25(OH)D2 was present in less than 10% sera. How was this ascertained if the ELISA could not detect it?”
Response: The 10% figure was quoted from a previous study. We have now provided the reference:
Saenger AK, Laha TJ, Bremner DE, Sadrzadeh SM. Quantification of serum 25-hydroxyvitamin D(2) and D(3) using HPLC-tandem mass spectrometry and examination of reference intervals for diagnosis of vitamin D deficiency. Am J Clin Pathol 2006;125:914-20

Các chuyên gia bình duyệt không phải là Thượng đế, mà cũng là con người bình thường như chúng ta. Thỉnh thoảng, họ không có thì giờ đọc bản thảo một cách cẩn thận, và họ có thể có nhận xét sai. Trong thực tế, điều này xảy ra không phải là hiếm. Trong trường hợp đó, tác giả không nên trả lời mỉa mai như “If the reviewer had bothered to read our paper …” (Nếu người duyệt bài chịu khó đọc bài báo của chúng tôi …) vì cách viết như thế sẽ được hiểu là trẻ con, và rất dễ làm cho người duyệt bài nổi nóng bác bỏ bài báo (họ cũng chỉ là con người với tham sân si). Thay vì trả lời mỉa mai, tác giả nên trả lời một cách “cao thượng” hơn như “We agree that this is an important issue, and we have already addressed it on page A, paragraph B, line C” (Chúng tôi đồng ý đây là điểm quan trọng, và chúng tôi cũng đã đề cập đến ở trang A, đoạn văn B, dòng C).
Thỉnh thoảng cũng có vài chuyên gia bình duyệt tỏ ra mất lịch sự và ấu trĩ. Những chuyên gia này thường muốn tỏ ra rằng họ có kiến thức, xem thường người đồng nghiệp khác để tự nâng họ lên, hay đưa ra những nhận xét châm biếm, hạ thấp tác giả, v.v. Đó là những thái độ cực kì thiếu chuyên nghiệp (unprofessional) và có thể nói là … vô giáo dục (uneducated). Trong trường hợp đó, tác giả không cần phải trả lời người duyệt bài (vì trả lời là tỏ ra mình quan tâm đến họ), mà viết riêng cho tổng biên tập, chỉ ra những thái độ ấu trĩ, những nhận xét thiếu tính chuyên nghiệp, và đề nghị không cho người đó nhận xét bất cứ bài báo nào trong tương lai. Tổng biên tập và ban biên tập cũng hiểu được vấn đề, nên họ thường tìm một chuyên gia khác “trưởng thành” hơn và chuyên nghiệp hơn. Trong thực tế, tôi đã từng thay mặt một nhóm tác giả Việt Nam phàn nàn một chuyên gia duyệt bài cho một tập san y khoa khi người này tỏ thái độ xem thường đồng nghiệp Việt Nam.
Cần nhớ rằng khi ban biên tập cho tác giả cơ hội trả lời bình duyệt thì điều đó có nghĩa là bài báo có cơ hội cao được công bố, với điều kiện tác giả trả lời hết những câu hỏi hay nhận xét của người duyệt bài. Do đó, tác giả không nên bỏ lỡ cơ hội này. Nếu tác giả trả lời không đầy đủ, hay khiếm nhã, hay tránh né vấn đề, thì xác suất bài báo bị từ chối sẽ rất cao. Trong thực tế, tôi cũng đã gặp nhiều trường hợp tác giả trả lời một cách hời hợt, và trong những trường hợp đó, tôi trả lại bài báo cho tác giả và đề nghị họ tìm một tập san khác. Tuỳ tập san, nhưng đối với những tập san tầm trung như JBMR, khoảng 50% bài báo bị trả về mà không cần gửi ra bình duyệt, sau khi bình duyệt khoảng 45% vẫn có thể bị từ chối, và ngay cả sau khi bình duyệt và trả lời, xác suất bị từ chối là khoảng 5%. Do đó, tác giả không nên bỏ sót bất cứ một chi tiết nhỏ nào trong khi trả lời.
Nói tóm lại, trả lời những nhận xét của các chuyên gia bình duyệt là một qui trình “give and take” (cho và nhận). Cho ý kiến và quan điểm của mình. Tiếp nhận ý kiến của người duyệt bài. Bí quyết để thành công trong văn bản trả lời chuyên gia bình duyệt là phải làm sao để người duyệt bài họ thấy mình được tôn trọng và ý kiến của họ được đánh giá cao. Để đạt được yêu cầu đó, xin nhắc lại 3 qui tắt trả lời: đầy đủ, lịch sự, và có chứng cứ.
N.V.T
TB. Nhân đây tôi cũng xin tạ lỗi cùng một nghiên cứu sinh N vì đã không giúp đỡ em đến nơi đến chốn. Đơn giản là vì tôi bận quá, và nếu sửa thì phải sửa lại gần như toàn bộ, mà kiến thức chuyên ngành của tôi thì không đủ. Mới sửa được phần đầu thì bận bịu đi đây đi đó nên trôi dần theo thời gian. Hi vọng em đã xong bài báo.
Nguồn: nguyenvantuan.net

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012

Cách viết đề cương nghiên cứu khoa học




http://ncbm.org/wp-content/uploads/2009/04/application-photo.jpgĐối với những người như tôi, viết đề cương nghiên cứu gần như là một … nghề. Năm nào cũng phải viết ít nhất 3 đề cương, có khi là đơn xin đề bạt, cũng có khi là đơn xin tái bổ nhiệm. Viết rất nhiều và thất bại cũng rất nhiều. Thất bại nhiều đến nổi khó đếm hết! Thất bại gần như là một … qui luật! Nhưng cũng có thành công, dù số lần thành công ít hơn số lần thất bại. Chính qua những thất bại, tôi mới học được những bài học đau lòng, và đó là lí do tại sao tôi muốn chia sẻ cùng các bạn trẻ hơn, hay các bạn chưa có kinh nghiệm (hay có ít kinh nghiệm) về cách viết đề cương nghiên cứu. Cố nhiên, tôi không dám hứa nếu các bạn tuân theo những gì tôi hướng dẫn là sẽ thành công, nhưng tôi dám hứa là xác suất thành công sẽ cao hơn là không làm theo những hướng dẫn ở đây. :-)

Trong cuộc sống hàng ngày, kể cả công việc chuyên môn, bất cứ ai trong chúng ta thường gặp những vấn đề đáng tìm hiểu, có khi rất lí tưởng cho nghiên cứu khoa học. Có những vấn đề không hẳn là phức tạp, nhưng có khi lại rất đơn giản. Thường, những vấn đề đơn giản là những vấn đề khó nhất, và có thể dẫn đến những khám phá quan trọng. Tại sao nam giới hay chết sớm hơn nữ giới? Tại sao người dân vùng nông thôn thường có làn da sậm hơn người dân thành thị? Tại sao phụ nữ Việt Nam thích có làn da trắng trong khi phụ nữ Âu châu thích làn da bánh ít? Tại sao các nam phẫu thuật viên hay chửi thề? Tần số chửi thề của phẫu thuật viên có khác nhau giữa các bộ môn? Tại sao bệnh nhân tử vong nhiều trong hai ngày cuối tuần? Chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân sau khi xạ trị ra sao?
http://www.cartoonstock.com/newscartoons/cartoonists/rma/lowres/rman5337l.jpg
Đó là những vấn đề tuy đơn giản những đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ, tìm câu trả lời, và trong vài trường hợp, tìm giải pháp. Những câu trả lời có khi đã hình thành từ cảm nhận cá nhân hoặc lương năng bình dân. Một nhà phẫu thuật, qua kinh nghiệm lâu năm, có thể tự tin rằng phương pháp điều trị của mình là có hiệu quả. Nhưng cũng có những câu trả lời xuất hiện một cách bất ngờ. Theo suy luận bình thường, nếu một người hàng xóm mắc bệnh ung thư và bác sĩ cho biết sẽ sống trong vòng 3 tháng nhưng trong thực tế sống đến 3 năm sau khi dùng một loại thảo dược, thì người ta sẽ nghĩ ngay đến thảo dược đó là có ích cho điều trị ung thư. Những kinh nghiệm cá nhân, những phát hiện tình cờ, tuy có thể là chứng cứ nhưng chưa phải là chứng cứ khoa học, và khó có thể đóng góp vào kho tàng tri thức y học, bởi vì chưa được hệ thống hoá. Một cách hệ thống hoá vấn đề là qua nghiên cứu khoa học.
1. Suy nghĩ như nhà khoa học
Do đó, đứng trước một vấn đề, một hiện tượng, chúng ta phải tập cách suy nghĩ như một nhà khoa học. Nhà khoa học suy nghĩ có phần khác với người thường, vì họ ít khi nào chịu sự chi phối của cảm tính. Một ca bệnh chưa đủ thuyết phục họ về một liệu pháp điều trị. Có trường hợp nhiều ca bệnh cũng chưa đủ để thuyết phục, bởi vì họ cần phải so sánh với nhóm không được điều trị (trong khoa học, thường được gọi là “nhóm chứng” – control group). Ngoài ra, nhà khoa học còn phải phát biểu giả thuyết (dựa trên câu hỏi) và kiểm định giả thuyết qua thí nghiệm. Trong trường hợp ung thư và dược thảo, trước khi đi đến kết luận nhà khoa học phải tìm hiểu cơ chế sinh học của dược thảo, đặt giả thuyết về hiệu quả, và tiến hành nghiên cứu để thu thập dữ liệu xem có phù hợp với giả thuyết hay không. Nói một cách ngắn gọn, nhà khoa học suy nghĩ qua 3 bước: đặt câu hỏi, phát biểu giả thuyết, và tiến hành thí nghiệm.
Câu hỏi nghiên cứu (research question) là một phát biểu mang tính bất định về một vấn đề. Vì mang tính bất định, nên nhà khoa học phải tìm hiểu những yếu tố nào dẫn đến sự bất định. Cần phải phân biệt một câu hỏi nghiên cứu tốt với một câu hỏi dở. Câu hỏi nghiên cứu tốt phải đáng ứng ít nhất 3 trong 5 tiêu chuẩn mà tôi tạm gọi là FINER.
  • F là viết tắt của feasibility, tức tính khả thi. Một câu hỏi nghiên cứu tốt phải khả thi, tức nhà khoa học có kinh nghiệm chuyên môn, có thể tuyển dụng đầy đủ bệnh nhân hay đối tượng nghiên cứu, có phương tiện đo lường và thí nghiệm, v.v.
  • I là interesting, tức thú vị. Một câu hỏi nghiên cứu tốt phải thú vị đối với nhà khoa học, xứng đáng để theo đuổi. Có nhiều nhà khoa học bỏ ra cả đời người chỉ theo đuổi một phân tử rất nhỏ.
  • N là novelty, tức có cái mới. Làm nghiên cứu là một việc làm sản sinh ra thông tin mới, phương pháp mới, hay ý tưởng mới. Một nghiên cứu chỉ lặp lại y chang những gì người khác đã làm thì không có cái gì mới, và được xếp vào nhóm “me too”.
  • E là ethics, tức đạo đức. Một nghiên cứu y khoa phải tôn trọng quyền con người, không làm hại người, phải bảo mật tuyệt đối (không được tiết lộ thông tin cá nhân ra ngoài). Một nghiên cứu y khoa còn phải đáp ứng những tiêu chuẩn về y đức. Nếu không đáp ứng tiêu chuẩn đạo đức / y đức thì dù câu hỏi có thú vị cỡ nào cũng phải bỏ đi!
  • R là relevant, tức liên đới. Thật ra, chữ “liên quan” ở đây có nghĩa là có ảnh hưởng. Một câu hỏi nghiên cứu mà nếu tìm được câu trả lời và có thể làm thay đổi chuyên ngành là một câu hỏi quan trọng. “Tác động” ở đây phải hiểu là có tác động tích cực đến thực hành lâm sàng, đến chính sách y tế của Nhà nước, hay có đóng góp một định hướng mới. Chẳng hạn như câu hỏi “Các chương trình truy tầm ung thư vú có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong?” là một câu hỏi tốt vì câu trả lời sẽ làm thay đổi nhận thức của phụ nữ và thay đổi chính sách y tế. Những câu hỏi nghiên cứu, mà nếu có câu trả lời cũng chẳng thay đổi gì cho chuyên ngành hay chẳng đóng góp thêm gì về thông tin thì không đáng theo đuổi.

Giả thuyết đối với nhà khoa học rất khác với câu hỏi nghiên cứu. Giả thuyết xuất phát từ câu hỏi nghiên cứu. Câu hỏi nghiên cứu xuất phát từ quan sát thực tế. Một câu hỏi nghiên cứu tốt sẽ dẫn đến giả thuyết khoa học hay.   Giả thuyết khoa học là một phát biểu mang tính tiên lượng giữa hai hay nhiều biến. Hai chữ tiên lượng ở đây rất quan trọng! Một phát biểu như “Có mối liên hệ giữa ung thư vú và loãng xương” không phải là giả thuyết vì không có tính tiên lượng. Nhưng một phát biểu như “Bệnh nhân ung thư vú có nguy cơ loãng xương thấp hơn bệnh không bị ung thư vú” thì được xem là một giả thuyết khoa học (vì có tính tiên lượng).
Cũng nên phân biệt giả thuyết khoa học với giả thuyết thống kê. Giả thuyết thống kê chỉ là một cách phát biểu giả thuyết khoa học để tiện cho việc kiểm định thống kê. Nếu giả thuyết khoa học là “bệnh nhân tiểu đường có tỉ trọng mỡ cao hơn người không bị tiểu đường”, thì giả thuyết thống kê là “bệnh nhân tiểu đường có tỉ trọng mỡ bằng người không bị tiểu đường”. Giả thuyết thống kê vừa đề cập còn có khi gọi là giả thuyết vô hiệu (null hypothesis). Bên cạnh giả thuyết vô hiệu, nhà khoa học còn phát biểu một giả thuyết đảo (alternative hypothesis): bệnh nhân tiểu đường có tỉ trọng mỡ khác với người không bị tiểu đường. Một cách nghiêm túc, không có giả thuyết vô hiệu thì tất cả phân tích thống kê gần như vô nghĩa (bởi vì phần lớn các phương pháp thống kê được phát triển lấy giả thuyết vô hiệu làm chuẩn). Một trong những nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là dùng dữ liệu để bác bỏ giả thuyết vô hiệu (và bác bỏ giả thuyết vô hiệu là gián tiếp chấp nhận giả thuyết đảo), bởi vì theo nhà triết học khoa học Karl Popper, chúng ta không thể nào chứng minh được một giả thuyết khoa học.
Sau khi đã có giả thuyết, bước kế tiếp là làm thí nghiệm (experiment). Thí nghiệm ở đây nên hiểu một cách rộng hơn, chứ không đơn thuần có nghĩa thí nghiệm trong phòng thí nghiệm. Một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial – RCT) mà theo đó một nhóm bệnh nhân được chia thành hai nhóm nhỏ (nhóm được điều trị và nhóm chứng không được điều trị) được xem là một thí nghiệm – thí nghiệm lâm sàng. Một nghiên cứu bệnh chứng cũng là một thí nghiệm. Thí nghiệm là một bước cực kì quan trọng để thu thập và phân tích dữ liệu, đi đến kết luận liên quan đến câu hỏi nghiên cứu.
Do đó, có thể nói rằng nghiên cứu là một chu trình khép kín. Bắt đầu từ câu hỏi nghiên cứu, nhà khoa học phát biểu giả thuyết, rồi tiến hành thí nghiệm để kiểm định giả thuyết đó. Một công trình nghiên cứu tốt thường mở ra một định hướng mới, và nhiều câu hỏi nghiên cứu mới. Chẳng hạn như câu hỏi “Tại sao người nông thôn có làn da sậm hơn người thành thị”, sau khi có câu trả lời (ví dụ) là do vitamin D, thì nó sẽ mở ra hàng loạt nghiên cứu mới: tại sao người thành thị hay thiếu vitamin D; yếu tố nào quyết định nồng độ vitamin D trong máu; vitamin D ảnh hưởng đến bệnh nào; nồng đồ vitamin D tối ưu là bao nhiêu; v.v. Một công trình nghiên cứu không mở ra một hướng mới là một công trình không xứng đáng để theo đuổi.

2. Đề cương nghiên cứu và văn phong
Thí nghiệm cần phải có qui trình và kế hoạch. Những qui trình và kế hoạch này phải được hoạch định (trước khi tiến hành nghiên cứu) trong một tài liệu mà tiếng Anh gọi là Research Proposal, và dịch sang tiếng Việt là “Đề cương nghiên cứu”. Tôi muốn hiểu hai chữ đề cương như sau: “Đề” là đề nghị, đề xuất; và “cương” là cương lĩnh. Đề cương nghiên cứu, do đó, là một tài liệu mà trong đó nhà khoa học đề nghị cương lĩnh hay chương trình làm việc. Đây là tài liệu quan trọng nhất trong một công trình nghiên cứu, vì qua đó mà cơ quan tài trợ có thể xét duyệt cấp kinh phí.
Tôi nghĩ có thể xem đề cương nghiên cứu như một bản vẽ của kiến trúc sư. Thật vậy, có thể xem nhà khoa học như là một kiến trúc sư. Kiến trúc sư phác hoạ chi tiết xây dựng một công trình trong bản vẽ. Nhà khoa học phác hoạ những chi tiết về qui trình làm nghiên cứu để thu thập và phân tích dữ liệu. Nếu bản vẽ là một tác phẩm của kiến trúc sư, thì chúng ta cũng có thể xem đề cương nghiên cứu như là một tác phẩm chữ nghĩa khoa học nhằm đi tìm câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu.
Đã là tác phẩm chữ nghĩa, thì cách viết đề cương nghiên cứu đóng vai trò rất quan trọng. Quan trọng là vì người đọc (có thể là nhà tài trợ, hay hội đồng xét duyệt) dựa vào đó mà quyết định cung cấp tài trợ hay không. Do đó, người viết (tức nhà khoa học) cần phải suy nghĩ rất cẩn thận, có hệ thống, và sử dụng ngôn ngữ cho chính xác. Nói thì có lẽ dễ, nhưng thực hành thì không dễ chút nào. Tài liệu này có mục đích khiêm tốn là chia sẻ cùng các bạn những kinh nghiệm về cách viết đề cương nghiên cứu y khoa sao cho thuyết phục và nâng cao xác suất được tài trợ.
Viết đề cương nghiên cứu khác với viết bài báo khoa học. Trước đây, tôi đã viết một loạt bài về cách viết một bài báo khoa học (có thể xem ở trang nguyenvantuan.net trong phần “Kĩ năng khác”). Nhưng phương pháp viết bài báo khoa học không thể áp dụng cho viết đề cương nghiên cứu. Những khác biệt chính là mục tiêu và thời gian tính. Mục tiêu của viết đề cương nghiên cứu là thuyết phục nhà tài trợ hay hội đồng xét duyệt rằng chúng ta có ý tưởng tốt, có cách tiếp cận hay, có phương tiện để thực hiện nghiên cứu. Mục tiêu của viết bài báo khoa học là để báo cáo những phát hiện rất cụ thể trong một nghiên cứu và những phát hiện này có ý nghĩa gì. Về thời gian tính, viết đề cương là phản ảnh về tương lai, còn viết bài báo khoa học là báo cáo những gì đã làm trong quá khứ. Viết đề cương mang tính hứa hẹn, nhưng hứa hẹn một cách khoa học (tức có bằng chứng), do đó rất khác với viết báo cáo khoa học thường mang tính biện minh và biện luận.
Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy viết đề cương nghiên cứu cung cấp cho mình nhiều cơ hội rất hay. Thứ nhất là cơ hội để sắp xếp ý tưởng mình một cách có hệ thống, có trước, có sau. Những ý tưởng hỗn độn, khi được mô tả trên trang giấy sẽ làm cho chúng ta suy nghĩ logic hơn. Thứ hai, viết đề cương cũng là một cơ hội để cập nhật hoá thông tin, vì chúng ta cần phải tìm hiểu trong y văn xem các đồng nghiệp khác đã làm gì. Thứ ba, từ đó, viết đề cương nghiên cứu cũng có nghĩa là tìm đồng nghiệp mới. Nhìn nhận như thế, viết đề cương có nhiều lợi ích, chứ không phải chỉ là “vẽ vời” theo cách nói mỉa mai của người ngoài cuộc.
Viết đề cương (hay viết văn nói chung) là một cách suy nghĩ. Có lẽ chúng ta đều đồng ý rằng viết văn là một phương tiện để chia sẻ thông tin với những người quan tâm. Người quan tâm có thể là đồng nghiệp của mình, nhưng cũng có thể là người không cùng chuyên ngành. Nhưng tôi muốn nghĩ rằng viết văn cũng là một cách thức hoàn thiện ý tưởng, và hiểu theo cách đó, viết chính là một phương tiện hay một công cụ để suy nghĩ. Suy nghĩ cũng cần phải có phương tiện, và theo tôi viết xuống những câu chữ do mình lựa chọn chính là một phương tiện. Có lẽ chính vì thế mà Nhà văn [và cũng là bác sĩ] Verghese từng nói một câu bất hủ, “I write to understand what I think” (tôi viết để hiểu những gì tôi suy nghĩ). Tôi rất đồng ý với câu này.
Thế thì câu hỏi đặt ra là tiêu chuẩn gì để đánh giá cách viết đề cương nghiên cứu là “tốt” hay “dở”. Kinh nghiệm cá nhân tôi cho thấy có 5 tiêu chuẩn: trong sáng, đơn giản, chính xác, khách quan, và cấu trúc logic.
 Trong sáng có nghĩa là tránh những câu văn rườm rà, những từ khó hiểu. Nếu viết “Nồng độ insulin ở nhóm điều trị cao hơn” thì sẽ không rõ ràng, vì người đọc không biết cao hơn nhóm nào. Ngay cả cách viết “Nồng độ insulin ở nhóm điều trị cao hơn nhóm chứng” cũng có thể nói là chưa đạt, bởi vì câu văn đó hàm ý nói rằng tất cả bệnh nhân trong nhóm điều trị đều có nồng độ insulin cao hơn nhóm chứng – một tình huống rất khó xảy ra. Trong thực tế thì “Tính trung bình, nồng độ insulin ở nhóm điều trị cao hơn nhóm chứng” có lẽ rõ ràng hơn.
Văn phong khoa học rất khác với thơ. Tôi thường nói đùa [và hay lấy làm ví dụ] về câu thơ của một tác giả tôi rất mến mộ (Lê Đạt): Tôi tha thẩn giữa chùa Quán Ngữ / Lời chuộc tuổi mình nói thật khai sinh. Câu đó trích trong tập thơ Đường Chữ. Đó là một câu văn rất khó hiểu! Một thi sĩ khác tôi cũng rất ngưỡng mộ là Hoàng Cầm, người sáng tác thơ một cách siêu thoát. Ông có sáng tác bài Tình Cầm, trong đó có hai câu rất du dương: Nếu anh còn trẻ như năm cũ / Quyết đón em về sống với anh. Có thể nói đó là những câu thơ độc đáo, gieo vần tuyệt vời, âm điệu rất nhạc tính, nhưng nhà khoa học không thể viết như thế được. Nhà khoa học phải viết văn trong sáng. Chẳng hạn như nếu nói còn trẻ thì phải định lượng rõ ràng bao nhiêu tuổi là trẻ; nếu nói năm cũ thì phải nói năm nào; nếu nói về sống với anh thì phải nói sống ở đâu. Văn phong khoa học không thể chung chung được. Nhà khoa học không phải nhà thơ. Nhưng rất tiếc, nhiều khi tôi bắt gặp những câu rất thơ trong những bài báo khoa học từ đồng nghiệp Việt Nam. Một triết gia Đức từng phê bình người Á đông rằng chúng ta [người Á đông] hay lẫn lộn giữa thơ và khoa học!

Trong văn phong khoa học, một câu văn phải có thông tin. Câu văn không có thông tin là câu văn thừa. Ví dụ tiêu biểu cho câu văn không có thông tin là [hay thấy trong giới báo chí] “Công trình nghiên cứu có 2 mục tiêu.” vì đọc xong câu văn người đọc không có bất cứ một nội dung nào cả; người đọc kì vọng 2 mục tiêu đó là gì và tự hỏi tại sao tác giả không viết ra. Nhưng nếu viết “Công trình nghiên cứu có 2 mục tiêu: xác định ảnh hưởng của can thiệp, và xác định yếu tố nguy cơ” thì đó là một câu văn có thông tin. Thử đọc 2 câu:
Ngoài ba khía cạnh trên, chúng tôi còn phân tích vấn đề dựa trên lí thuyết văn hoá xã hội.

Ở đây, lại có nhiều khía cạnh khác.
Hai câu văn này có thể thích hợp cho báo chí, nhưng hoàn toàn thất bại trong khoa học! Nói cách khác, trong văn cảnh khoa học, một câu văn phải tồn tại một cách riêng lẻ (self-contained), có thông tin và có ý; đọc câu văn như thế người đọc không hẳn cần phải đọc câu trước.
Đơn gin có nghĩa là dùng từ ngữ dễ hiểu, chính xác, và câu văn ngắn. Trong tiếng Việt có những câu chữ rất dài để mô tả một ý, nhưng nếu đọc kĩ có thể viết ngắn gọn hơn. Thay vì dùng những danh từ gốc Hán, chúng ta nên cố gắng dùng những danh từ gốc Việt.
Chính xác là định lượng hoá nội dung thông tin. Tránh những từ ngữ mù mờ. Tiếng Việt ta (và tiếng Anh cũng thế) có những chữ như khong, xấp xỉ, độ, gn, đa số, phần lớn, nói chung, v.v. không mang tính định lượng cao. Khoa học là cân đo đong đếm, nên cố gắng viết một cách định lượng. Khó biết bao nhiêu là đa số, 80% hay 90% là đa số? Thay vì viết “Đa số bệnh nhân …”, chúng ta nên viết (nếu có số liệu) “80% bệnh nhân …” thì sẽ rõ ràng hơn. Trong khoa học không có chuyện “nói chung”. Viết đến đây tôi nhớ có lần ông Nguyễn Bá Thanh chất vấn một giám đốc sở giao thông vận tải thuộc Thành phố Đà Nẵng, và ông giám đốc trả lời “Thưa anh, nói chung là ….”, ông Thanh ngắt lời ngay: Nói riêng, chứ không nói chung. Hội trường cười xoà. Ông Nguyễn Bá Thanh đã áp dụng tiêu chuẩn khoa học vậy.
Khách quan là cách viết phi cảm tính, và nhất là không “nhét chữ vào miệng người đọc”. Thay vì viết “Sự khác biệt rất có ý nghĩa lâm sàng”, thì nên viết “Sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng” rồi trích dẫn con số hay dữ liệu để người đọc phán xét. Khách quan cũng có nghĩa là tránh giả định (kiểu như Ai cũng biết rng …). Tuân theo nguyên tắc khách quan còn có nghĩa là tránh những câu văn không có chứng cứ.
Cu trúc logic là phải cố gắng sắp xếp ý tưởng một cách có trước có sau, khúc chiết. Có một thống kê [tôi không còn giữ nguồn] cho rằng 85% những hiểu lầm là do cấu trúc đoạn văn, chỉ có 15% hiểu lầm là do nội dung. Do đó, có lẽ đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất trong cách viết đề cương. Bất cứ khái niệm gì mới cần phải có giải thích trước đó. Nếu một đoạn văn xuất hiện cụm từ “chất lượng cuộc sống” mà không được đề cập đến trong các đoạn văn trước là một cách viết rất … dở (thiếu tính khúc chiết).
Cấu trúc câu văn và đoạn văn để nhấn mạnh một chủ đề. Chúng ta thử đọc 4 câu văn sau đây:
  1. Mc dù thuc có hiu qu cao, nhưng cũng gây tác hi đáng k.
  2. Mc dù thuc gây tác hi đáng k, nhưng có hiu qu cao. 
  3. Thuc có tác hi đáng k, nhưng rt hiu quả. 
  4. Thuc có hiu qu cao, nhưng gây tác hi đáng k
Cái khác biệt chính giữa các câu văn có lẽ không phải nội dung, mà là vị trí nhấn mạnh ý tưởng. Câu hỏi đặt ra là trong một câu văn, cần nhấn mạnh phần nào: phần đầu, phần giữa, hay phần cuối? Các chuyên gia về viết văn khuyến cáo rằng nên dùng phần đầu để nhấn mạnh điểm chính yếu. (Cũng có chuyên gia đề nghị nên dùng phần cuối câu văn để nhấn mạnh). Nên mở đầu câu văn với một từ khoá, nếu chúng ta muốn người đọc chú ý đến chủ đề đó. Trong câu loãng xương là một vấn đề y tế quan trọng, ý tôi nhấn mạnh đến loãng xương. Tuy nhiên, nếu tôi viết Một trong những vấn đề y tế quan trọng nhất hiện nay là loãng xương, thì cũng nói lên cái ý đó, nhưng có lẽ người đọc sẽ hiểu rằng tôi đang nhấn mạnh đến khía cạnh y tế hơn là loãng xương.
Vị trí nhấn mạnh và cách dùng có khi làm cho người đọc hiểu khác. Trong một cuốn sách về cách soạn câu hỏi trong nghiên cứu khoa học, tác giả kể chuyện [vui] về 2 thầy tu, một người tu dòng Đa Minh (Dominican) và một người tu dòng Tên (Jesuit), thảo luận xung quanh vấn đề tội và hút thuốc lá trong khi cầu nguyện. Sau một lúc thảo luận hai người bất đồng ý kiến, và mỗi người đi hỏi bề trên của mình. Tuần thứ hai, họ gặp lại, và có cuộc đối thoại như sau:
Vị tu sĩ dòng Đa Minh hỏi vị tu sĩ dòng Tên: Thế bề trên của anh nói gì?
Vị tu sĩ dòng Tên: Ngài nói ok.
Tu sĩ dòng Đa Minh: Vui nhỉ! Bề trên của tôi nói rằng đó là một tội.
Tu sĩ dòng Tên: Thế anh hỏi bề trên của anh như thế nào?
Tu sĩ dòng Đa Minh: Tôi hỏi ngài rằng hút thuốc lá trong khi cầu nguyện có ok không?
Tu sĩ dòng Tên ồ lên rồi nói: Ah, còn tôi hỏi ngài rằng cầu nguyện trong khi hút thuốc lá có ok không.
Đó là một bài học đáng chú ý về cách đặt chữ vào vị trí thích hợp. Chỉ cần thay đổi thứ tự của chữ là có thể thay đổi ý nghĩa của câu văn, và làm cho người đọc có thể hiểu khác. Trong viết văn khoa học, tác giả không nên để cho người đọc hiểu hai nghĩa!
Ngoài ra, nên tránh cách viết “đánh trống bỏ dùi”. Đó là cách viết tuyên bố một chủ đề, nhưng những câu sau đó lại nói về chủ đề khác. Thử đọc đoạn văn:
Gãy cổ xương đùi là hậu quả hay gặp đứng hàng thứ 3 của loãng xương, bệnh có tỉ lệ tử vong và tàn phế cao, chất lượng sống của người bệnh giảm đáng kể ngay cả khi đã được điều trị đứng đắn. Bệnh thường gặp ở người cao tuổi với tỉ lệ nữ:nam là 3:1.

Câu đầu của đoạn văn trích dẫn trên có 3 ý chính: sự phổ biến, hệ quả, và điều trị. Đọc xong câu văn đó, người đọc kì vọng tác giả sẽ “chứng minh” ba ý đó bằng dữ liệu ra sao. Nhưng câu thứ hai thì tác giả không cung cấp thêm thông tin để bổ nghĩa cho câu đầu, mà chuyển sang một ý khác. Đối với tác giả có kinh nghiệm, đoạn văn trên chưa đạt. Đó là chưa nói đến cách dùng chữ và ý nghĩa còn khá mù mờ (ví dụ: “đứng hàng thứ 3 của loãng xương” có nghĩa là gì). Trong văn phong khoa học, mỗi câu văn chỉ nói lên 1 ý mà thôi; tham vọng quá sẽ không chuyển tải hết ý nghĩa.

http://www.cartoonstock.com/newscartoons/cartoonists/cca/lowres/ccan251l.jpg

4. Nội dung một đề cương nghiên cứu
Một đề cương nghiên cứu bao gồm những gì? Trả lời câu hỏi này còn tuỳ thuộc vào “văn hoá” và qui định địa phương. Ở Việt Nam, những đề cương nghiên cứu thường có những đề mục sau đây:
  • Mục tiêu của đề tài;
  • Tổng quan tình hình nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài ;
  • Nội dung nghiên cứu;
  • Phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề;
  • Hợp tác quốc tế (nếu có) ;
  • Tiến độ thực hiện;
  • Dạng kết quả dự kiến của đề tài;
  • Yêu cầu khoa học đối với những sản phẩm dự kiến tạo ra;
  • Kế hoạch triển khai;
  • Lợi ích mang lại và tác động của kết quả nghiên cứu;
  • Các tổ chức tham gia nghiên cứu; và
  • Kinh phí.
Những đề mục của một đề cương nghiên cứu trên đây không có vấn đề gì, nhưng cách tổ chức và sắp xếp thông tin thì hơi khác so với nước ngoài. Những đề mục như các tổ chức tham gia nghiên cứu, kinh phí là vấn đề hành chính, đáng lẽ phải trình bày trong một tài liệu riêng. Ở nước ngoài (cụ thể là Úc, Anh, Đức, Thái Lan, Mĩ, v.v., những nơi mà tôi có kinh nghiệm) thì nội dung một đề cương nghiên cứu thường đơn giản hơn Việt Nam. Ở những nước đó, một đề cương nghiên cứu bao gồm những phần sau đây:
  • Tóm lược (synopsis): giống như một tóm tắt cho một dự án nghiên cứu. Thường thường chỉ 1-2 trang giấy;
  • Mục tiêu cụ thể (specific aims);
  • Bối cảnh và tầm quan trọng (background & significance);
  • Kết quả nghiên cứu sơ khởi (preliminary results);
  • Kế hoạch nghiên cứu và phương pháp (research design and methods); và
  • Tài liệu tham khảo.
Tuy những đề mục của đề cương Việt Nam có vẻ hơi nhiều, nhưng số trang thường chỉ dao động trong khoảng 10 đến 20 trang. Ở nước ngoài, như NIH (Viện Y tế của Mĩ chuyên cấp tài trợ cho nghiên cứu y sinh học – và cũng là một trung tâm nghiên cứu) thì có qui định số trang rất rõ ràng. Một đề cương của NIH tối đa là 30 trang (hiện nay thì có thay đổi và giảm xuống còn 20 trang?) Tôi có làm một so sánh giữa một đề cương tiêu biểu của VN và của NIH thì thấy như sau:
So sánh số trang của một đề cương VN và NIH

Đề mục
Vit Nam
Mĩ (NIH)
Tổng quan tài liệu
10
2
Mục tiêu
1
1
Kết quả sơ khởi
0
6-8
Phương pháp
5
10-20

Nói cách khác, đề cương nghiên cứu của VN viết dài về bối cảnh và tổng quan tài liệu, nhưng rất ngắn về phương pháp. Ngược lại, ở nước ngoài (tiêu biểu là NIH của Mĩ), một đề cương nghiên cứu chủ yếu là phần phương pháp (rất dài) nhưng phần tổng quan tài liệu thì ngắn. Rất nhiều đề cương nghiên cứu từ VN mà tôi đọc qua, trong phần tổng quan tài liệu, tác giả viết dài nhưng chẳng liên quan gì đến chủ đề và mục tiêu nghiên cứu! Hầu như đề cương nghiên cứu y khoa nào cũng viết theo một công thức, trong đó có cả phác đồ điều trị, những định nghĩa rất căn bản về bệnh, những yếu tố nguy cơ (mà có lẽ ai trong ngành cũng biết). Có khi đề cương nghiên cứu tìm hiểu tỉ lệ mắc bệnh, nhưng tác giả phải điểm qua một cách khá dài dòng về phương pháp điều trị! Phần lớn những thông tin này thật ra là tác giả dịch từ sách giáo khoa, hoặc dịch từ những bài tổng quan trên các tập san ở nước ngoài (và không buồn sửa biểu đồ tiếng Anh hay ghi nguồn!) chứ tác giả cũng chưa hẳn am hiểu.
Một điểm khác biệt đáng chú ý là đề cương nghiên cứu ở nước ngoài phải có phần “Kết quả sơ khởi”, còn ở Việt Nam thì không có hoặc không yêu cầu. Ở Úc và Mĩ, một đề cương mà không có kết quả sơ khởi (hay những nghiên cứu trước đây cùng chủ đề mà nhà khoa học đã làm) thì không bao giờ được qua vòng đầu xét duyệt, rất rất khó có khả năng được tài trợ. Trong các phần sau đây, tôi sẽ trình bày cách viết 4 phần quan trọng nhất: mục tiêu, bối cảnh, nghiên cứu sơ khởi, và phương pháp nghiên cứu. Tôi sẽ cố gắng đưa vài ví dụ cụ thể từ những đề cương trước đây của tôi và của các đồng nghiệp khác. Vì bài này cũng nhắm đến các bạn nghiên cứu sinh đang hay sắp đi học nước ngoài, nên tôi cũng trình bày vài ví dụ bằng tiếng Anh để các bạn có thể tham khảo.
4.1 Phần mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là phần quan trọng của một đề cương nghiên cứu, vì đó là “bộ mặt” mà người đọc sẽ nhìn qua. Khi người đọc thấy mục tiêu nghiên cứu có cái gì mới hay thú vị thì họ sẽ đọc tiếp; nếu không, họ có thể xếp lại đề cương và thế là tác giả đã thất bại. Do đó, có thể xem phần mục tiêu nghiên cứu như là một cái test cho người đọc. Chỉ khi nào cái test này được qua thì tác giả mới thành công một phần trong việc thuyết phục người đọc.
Phần mục tiêu nghiên cứu nên được cấu trúc 3 phần như sau:
  • Một đoạn văn tổng quát về vấn đề chung;
  • Phát biểu về mục tiêu chung (tiếng Anh gọi là goal);
  • Phát biểu về mục tiêu chuyên biệt (specific aims), và mỗi mục tiêu nên kèm theo một giả thuyết.
Đoạn văn tổng quát phải nói được vấn đề lớn mà nhà nghiên cứu quan tâm. Đó là một đoạn văn mang tính holistic, hay bối cảnh nghiên cứu mà đề cương này sẽ đóng góp một phần tri thức.
Mục tiêu chung hay mục tiêu tổng quát là mục tiêu lâu dài mà nhà nghiên cứu muốn đạt được. Có thể nghiên cứu hiện nay chưa đạt được, nhưng sẽ đóng góp một phần trong định hướng giải quyết vấn đề về lâu về dài. Trong bóng đá, mục tiêu tối hậu và tổng quát là phá lưới; tương tự, trong nghiên cứu khoa học, mục tiêu tổng quát là nhắm đến giải quyết một vấn đề chung cho chuyên ngành.
Mục tiêu chuyên biệt là những tâm điểm cụ thể. Cụ thể hiểu theo nghĩa có thế đo lường được, có thể kiểm định được. Người viết đề cương kinh nghiệm thường viết mỗi mục tiêu chuyên biệt kèm theo một giả thuyết. Thỉnh thoảng, nếu có “đất”, nhà nghiên cứu nên kèm theo những kết quả dự kiến cho từng mục tiêu. Thông thường chỉ cần 2-3 mục tiêu chuyên biệt là đủ. Nhiều mục tiêu quá sẽ khó thực hiện; ít quá sẽ không đáp ứng tiêu chuẩn của một dự án nghiên cứu khoa học.
Trong thực tế, tôi đã từng thấy nhiều đề cương thất bại (kể cả của chính tôi) vì cách phát biểu mục tiêu chưa đạt. Những sai lầm phổ biến trong cách viết mục tiêu chuyên biệt bao gồm:
  • Mục tiêu phi thực tế, tức thiếu tính khả thi;
  • Mục tiêu không có lí do chính đáng (giống như từ “trên trời rơi xuống”);
  • Mục tiêu mang tính quá mô tả (như tìm hiểu bao nhiêu nam và nữ có hội chứng chuyển hoá);
  • Mục tiêu quá phức tạp, mà đọc lên người ta không hiểu tác giả muốn làm gì;
  • Mục tiêu quá phụ thuộc lẫn nhau (sẽ bàn dưới đây).


Ví dụ 1: Đây là trích dẫn đề cương nghiên cứu về loãng xương của một đồng nghiệp và có sự đồng ý của tác giả.
[Đoạn văn tổng quát để “dìu dắt” độc giả rằng đây là vấn đề quan trọng]: Loãng xương là một bệnh mà lực của xương bị suy giảm, chất lượng xương xuống cấp, và hệ quả là tăng nguy cơ gãy xương. Hệ quả của loãng xương là gãy xương. Chẩn đoán loãng xương dựa vào đo lường mật độ xương. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có giá trị tham chiếu cho việc chẩn đoán loãng xương.
[Mục tiêu tổng quát đáp ứng vấn đề chung]: Mục tiêu lâu dài của nghiên cứu này là phát triển tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương cho người Việt (nam và nữ) và xây dựng mô hình tiên lượng gãy xương. Hoàn thành mục tiêu này sẽ giúp cho việc chẩn đoán loãng xương chính xác hơn, và nhận dạng những cá nhân có nguy cơ gãy xương cao để can thiệp sớm và giảm qui mô loãng xương trong cộng đồng.
[Mục tiêu chuyên biệt] Để đạt được mục tiêu đó, chúng tôi đề nghị theo đuổi các mục tiêu cụ thể như sau:
  • Mục tiêu 1: Xây dựng giá trị tham chiếu mật độ xương đùi và xương cột sống ở nam và nữ; và qua đó, xác định chỉ số T cho chẩn đoán loãng xương ở người Việt.
  • Giả thuyết 1: Mật độ xương ở người Việt thấp hơn mật độ xương ở người Âu Mĩ; do đó, chỉ số T của người Việt cũng khác với chỉ số T của Tổ chức Y tế Thế giới.
  • Kết quả kì vọng: Giá trị tham chiếu về mật độ xương (trung bình, độ lệch chuẩn, chỉ số T) có thể sử dụng cho việc chẩn đoán loãng xương ở nam và nữ Việt Nam.
  • Mục tiêu 2: Xác định tỉ lệ lưu hành loãng xương và gãy xương ở nam và nữ;
  • Giả thuyết 2: Nữ giới có nguy cơ loãng xương và gãy xương cao hơn nam giới, nhưng độ khác biệt sẽ giảm dần trong độ tuổi trên 70.
  • Kết quả kì vọng: Kết quả là tần số loãng xương và gãy xương theo giới và độ tuổi. Những kết quả này sẽ cung cấp chứng cứ về qui mô loãng xương và gãy xương ở người cao tuổi và sau mãn kinh (nữ).
  • Mục tiêu 3: Xác định yếu tố nguy cơ liên quan đến loãng xương và gãy xương, kể cả các markers chu chuyển xương, và qua đó phát triển mô hình tiên lượng loãng xương và gãy xương.
  • Giả thuyết 3: Marker chu chuyển xương tăng theo độ tuổi, và chu chuyển xương cao tương quan với sự suy giảm mật độ xương ở nam và nữ.
  • Kết quả kì vọng: Giá trị tham chiếu về marker chu chuyển xương, và mô hình tiên lượng gãy xương cho người Việt. Với mô hình này, các bác sĩ có thể ước tính nguy cơ gãy xương ngay cả trong điều kiện không có máy DXA.
Ví dụ 2: Trong ví dụ này, tác giả viết phần mục tiêu rất “bài bản”.
[Mở đầu là vấn đề chung]. Exposure to pathogenic microbial lipids, like lipopolysaccharide (LPS), triggers a complex and coordinated protective response by the immune system. A growing body of evidence indicates that triglyceride-rich lipoproteins and apolipoprotein E (apoE) play an integral role in host defense against bacterial infection. Yet, how these non- traditional elements of the immune system contribute to host immunocompetence is unclear. Published data indicate that apoE is protective against bacterial infection and injury. Accordingly, infusion of apoE has been shown to decrease LPS-induced morbidity and mortality in rodents. [2, 3] Also, apoE-deficient mice have an increased susceptibility to lethal infection when injected with live bacteria. [4, 5] But, unexpectedly, our laboratory has recently discovered that infusion of apoE increased rather than decreased mortality after cecal ligation and puncture, an in vivo model of polymicrobial sepsis. [1] We believe that this discordant observation highlights a novel activity for apoE in regulating the host response to pathogenic microbial lipid antigens through activation of thymus-derived lymphocytes (T cells). Consequently, uncovering the role that triglyceride-rich lipoproteins, apoE and T cells play in the mammalian response to infection simultaneously assigns important new biological functions to plasma lipoproteins, further blurs the boundary separating innate and adaptive immunity, and provides unique insights into the host response to infection that could yield innovative therapies for sepsis. [dùng gạch dòng để nhấn mạnh mục tiêu chung] This proposal will investigate how apoE and natural killer T (NKT) cells, a sub-population of T lymphocytes, contribute to the host response to severe sepsis following cecal ligation and puncture in mice. Furthermore, we will test the hypothesis that modifying the expression or activity of apoE can protect against sepsis.
[Phát biểu giả thuyết chung] Our working hypothesis that triglyceride-rich lipoproteins are integral components of the immune system is supported by the following observations. First, the synthesis and secretion of triglyceride-rich lipoproteins is dramatically increased during clinically significant infections, an observation termed “lipemia of sepsis.” Second, triglyceride-rich lipoproteins bind various microbial lipids and thus protect against shock and death in rodent models of sepsis. [6-9] Third, triglyceride-rich lipoproteins clear LPS from the circulation and deliver it to the liver [7, 10], where lipoprotein-LPS complexes subsequently modulate the hepatic immune response to infection. [11-14] And, fourth, apoE has recently been shown to bind and deliver microbial lipids to antigen-presenting cells, a critical step in activating NKT cells and the immune system.
[Phát biểu giả thuyết chuyên biệt] The specific hypothesis driving the proposed research is that apoE, a key constituent of triglyceride- rich lipoproteins, regulates the host response to severe infection through its effects on NKT cell activation and cytokine production. By examining the effect of apoE on an in vivo model of polymicrobial sepsis in mice, we aim to uncover the regulatory impact of apoE on the immune response to infection. Our long term goal is to identify how plasma lipoproteins contribute to host immunocompetence and apply this knowledge to the development of novel and effective treatments for severe bacterial infections.
[Mục tiêu chuyên biệt, dùng tô đậm để nhấn mạnh và gây chú ý. Trong mỗi mục tiêu, tác giả chỉ ra họ sẽ có kết quả gì] The specific aims of the proposal are therefore:
1. To demonstrate that serum apolipoprotein E (apoE) concentrations correlate with morbidity and mortality in a murine model of polymicrobial sepsis.
A. show that apoE increases mortality following cecal ligation and puncture (CLP) sepsis in mice in a dose-dependent manner;
B. show that apoE increases CLP-induced morbidity via changes in Th1 cytokine secretion, liver injury and bacterial clearance;
2. To demonstrate that apoE promotes the activation of natural killer T (NKT) cells during CLP-induced sepsis.
A. delineate the effect of apoE on NKT cell frequency, proliferation, cytokine expression and cytotoxic effector functions in the liver, spleen and thymus following CLP in mice;
B. show that apoE-mediated immune regulation during sepsis is dependent on NKT cell activation using
immunodeficient mice;
3. To test the hypothesis that inhibition of apoE activity protects against the morbidity and mortality of sepsis.
A. show that the biochemical, immunologic or genetic inhibition of apoE activity protects against sepsis;
B. examine the effect of modifying apoE activity during the early versus late phase of sepsis.
Ví dụ 3: Đây là một đề cương nghiên cứu lâm sàng ở Mĩ. Tác giả có cách viết cô đọng hơn. Mở đầu, tác giả mô tả một cách ngắn gọn về nội dung của nghiên cứu. Sau đó, tác giả phát biểu mục tiêu chính (primary aim) và mục tiêu phụ (secondary aim).
[Mở đầu, mô tả ngắn gọn về công trình IRIS và giả thuyết] The Insulin Resistance Intervention after Stroke Trial (IRIS) is a randomized, double-blind, placebo-controlled trial that will test the hypothesis that reducing insulin resistance and its sequelae with thiazolidinedione therapy will prevent stroke and myocardial infarction among patients with a recent ischemic stroke. Eligible subjects are men and women over 44 years of age without diabetes mellitis who have insulin resistance and a non- disabling ischemic stroke. During 3 years of recruitment, 3136 patients will be randomly assigned to pioglitazone, a thiazolidinectone, or placebo.
[Mục tiêu chuyên biệt] The specific aims are as follows. 1. Primary Aim. To determine if pioglitazone, compared to placebo, will reduce the overall risk for fatal or non-fatal stroke or fatal or non-fatal MI among non-diabetic men and women over age 44 years with insulin resistance and a recent ischemic stroke.
Among diabetics with insulin resistance, we hypothesize that pioglitazone will reduce the occurrence of any primary endpoint (fatal or non-fatal stroke or MI) within four years from 27% to 22%. The basis of this hypothesis is research showing... (details about studies associating insulin resistance with increased risk for stroke, MI, etc.)...By these and other mechanisms, we hypothesize that pioglitazone will protect patients with ischemic stroke and insulin resistance against recurrent vascular events.

Trong các ví dụ trên đây, dễ dàng thấy rằng các mục tiêu chuyên biệt tuy nhắm đến một mục tiêu tổng quát, nhưng không lệ thuộc vào nhau. Đây là một chiến lược trong việc soạn đề cương nghiên cứu. Nếu mục tiêu 2 tuỳ thuộc vào sự thành bại của mục tiêu 1, và mục tiêu 3 phụ thuộc vào kết quả của mục tiêu 2, thì đề án sẽ rất … nguy hiểm. Nguy hiểm là vì nếu mục tiêu trước thất bại, thì tất cả các mục tiêu khác đều không thể thành hiện thực, và do đó, công trình nghiên cứu sẽ không khả thi. Bài học ở đây là cần phải thiết kế nghiên cứu sau cho các mục tiêu chuyên biệt ít phụ thuộc vào nhau.

4.2 Phần bối cảnh và tầm quan trọng
Phần bối cảnh và tầm quan trọng, như tên gọi, có chức năng “dàn dựng sân khấu” cho công trình nghiên cứu. Không chỉ dàn dựng, mà còn phải nói lên được tầm quan trọng của công trình nghiên cứu. Không ai muốn đầu tư vào những công trình nghiên cứu không gây ảnh hưởng hay tác động tích cực. Có 2 phần chính là bối cảnh (background) và tầm quan trọng (significance):
Trong phần bối cảnh, tác giả cần phải viết theo phong cách kể chuyện. Nhưng kể chuyện một cách khoa học, sao cho đồng nghiệp không cùng chuyên ngành vẫn có thể hiểu được vấn đề. Mỗi một mục tiêu chuyên biệt trong phần đầu cần phải được lí giải trong phần bối cảnh. Phải viết và thuyết phục người đọc sẽ đọc tiếp, và muốn đạt mục đích đó, tác giả cần phải viết theo công thức chung:
Cái gì đã biết --> cái gì chưa biết --> câu hỏi
Known --> unknown --> question

Nói cách khác, tác giả phải điểm qua những nghiên cứu trước (đã biết), và chỉ ra cho được khoảng trống tri thức (chưa biết), để đặt thành câu hỏi cho nghiên cứu. Ví dụ chúng ta đã biết tình trạng thiếu vitamin D ở các tỉnh miền Nam, nhưng vì miền Bắc có thời tiết khí hậu khác và chưa ai biết tần số thiếu vitamin D ngoài Bắc, nên câu hỏi là tỉ lệ thiếu hụt vitamin D ở cư dân phía Bắc là bao nhiêu.
Về cách viết, không chỉ đơn giản liệt kê những nghiên cứu trước, mà phải dùng “phương pháp 4C”. Phương pháp này viết tắt từ 4 động từ:
  • Compare – so sánh: tác giả cần phải so sánh những thông tin từ những nghiên cứu trước;
  • Contrast – đối chiếu: sau đó đối chiếu và giải thích tại sao có sự khác biệt;
  • Cite – trích dẫn: điều bắt buộc là nếu dùng dữ liệu của đồng nghiệp thì phải trích dẫn; và
  • Critique – phê bình: “Phê bình” ở đây có nghĩa là phê bình một cách kính trọng, chứ không mang tính đánh đổ đồng nghiệp. Cách viết hay nhất là thay vì phê phán, tác giả có thể trình bày một cách hiểu, cách diễn giải khác để xem như là một cách đóng góp vào y văn.

Trong phần tầm quan trọng (significance), tác giả cần phải “giải trình” rằng công trình nghiên cứu sẽ có tác động đến:
  • Chuyên ngành;
  • Chính sách y tế hay thực hành lâm sàng;
  • Phương pháp mới; và
  • Tri thức sẽ rút ra được từ công trình nghiên cứu.
Phần tầm quan trọng có khi phải dùng đến kĩ thuật “pitch” (lên giọng). Nói cách khác, cần viết sao cho người khác có thể trích dẫn một câu từ đề cương. Chẳng hạn như nếu là nghiên cứu về di truyền, tôi có thể viết
The studies in this proposal will provide a basis for understanding allelic heterogeneity influencing clinical endpoints, ultimately impacting on disease development” (những nghiên cứu mô tả trong đề cương này sẽ cung cấp nền tảng để hiểu biết về sự đa dạng alen có ảnh hưởng đến kết cục lâm sàng, và sau cùng là tác động đến sự tiến triển của bệnh).
Một câu như thế đối với vài đồng nghiệp ở Việt Nam sẽ gọi là “nổ”, nhưng ở nước ngoài thì hoàn toàn có thể chấp nhận được. Vấn đề còn tuỳ thuộc vào vị trí của tác giả và uy tín trong chuyên ngành. Nghiên cứu sinh có lẽ không nên viết khiêm tốn hơn, nhưng với người đã có “tên tuổi” thì một câu pitch như thế hoàn toàn bình thường. Nên nhớ rằng viết đề cương là một cách bán ý tưởng, nên tác giả cần phải thuyết phục tầm quan trọng của nghiên cứu.
Ví dụ 4: Trong đề cương cứu dưới đây, tác giả muốn thuyết phục người đọc về tầm quan trọng của công trình nghiên cứu:
Loãng xương và gãy xương là một vấn đề y tế cộng đồng lớn ở nước ta, vì hàng năm có khoảng 200.000 người gãy xương, dẫn đến giảm tuổi thọ và hạn chế lao động. Mật độ xương là một chỉ số lâm sàng quan trọng vì MĐX có thể tiên lượng nguy cơ gãy xương cho một cá nhân. Vì thế, MĐX còn được sử dụng để chẩn đoán loãng xương.
Công trình nghiên cứu này có mục tiêu xây dựng giá trị tham chiếu MĐX cho phụ nữ và đàn ông Việt Nam. Với giá trị tham chiếu này, việc chẩn đoán loãng xương ở người Việt sẽ chính xác hơn và qua đó chúng ta có thể biết được qui mô loãng xương ở nước ta.
Do đó, công trình nghiên cứu mang tính cấp thiết, vì sự hiện diện của máy DXA nhiều ở nước ta nhưng chưa có giá trị tham chiếu cho người Việt. Vì thế, kết quả nghiên cứu có giá trị thực tiễn, có thể áp dụng ngay cho việc chẩn đoán loãng xương. Ý nghĩa lý luận của công trình nghiên cứu là cung cấp những thông tin khoa học cho việc hoạch định các chiến lược phòng chống bệnh loãng xương ở qui mô cộng đồng.

Ví dụ 5: Trong đề cương dưới đây, tác giả viết ngắn gọn về bối cảnh và tầm quan trọng nghiên cứu, bằng cách dùng các tiêu đề nhỏ để nhấn mạnh từng điểm:
Why Study Square Cell Disease in the Kidney?
Renal dysfunction commonly complicates square cell disease and is a major cause of morbidity and mortality. Acute Renal Syndrome is the leading cause of death in square cell disease and commonly leads to acute renal failure (58), while chronic uremia, filtration insufficiency, and renal vascular disease occur in 20-60% of adults with square cell disease (46, 54). Despite its clinical importance, the kidney has rarely been the focus of basic research in square cell disease. Current understanding of square cell pathophysiology derives from studies performed in other organs or in vitro. Because mechanisms of vaso-occlusion and inflammation in the kidney are likely to be different from those in other organs, there is a critical need for basic research on square cell disease that focuses on the kidney.
Physiological Determinants of Vaso-occlusion in the Kidney
Research on renal vaso-occlusion is limited to two studies that suggest severe medullary hypertonia causes sequestration of SQ RBCs in the kidney (3, 17). These studies did not adequately assess effects of modest tubular hypertonia and no study has evaluated the importance of mixed arterial hypertonia or inflammation to renal vaso-occlusion. In Specific Aim 1, we adapt the isolated rat kidney model used in these original studies (3, 17) to determine effects of tubular hypertonia, and mixed arteriolar hypertonia and renal inflammation on kidney micro vaso-occlusion...etc.
Summary and Clinical Significance
Studies performed in vitro and in other organs have given important insights into the pathophysiology of square cell disease, but have not yet defined the important pathophysiology in the kidney. The studies we propose will attack the problem directly using sensitive and specific techniques. These studies will lay the experimental foundation for understanding square cell disease crises in the kidney. The importance of these studies to the affected population cannot be exaggerated.


4.3 Phần nghiên cứu sơ khởi
Đề cương nghiên cứu ở Việt Nam thường không có phần này! Nhưng đối với các cơ quan tài trợ nghiên cứu khoa học nước ngoài thì đây là phần không thể thiếu được. Tuy nói là “nghiên cứu sơ khởi”, nhưng trong thực tế thì những nghiên cứu như thế đã công bố trên các tập san quốc tế. Đây là những nghiên cứu làm nền tảng để tác giả làm cơ sở cho câu hỏi nghiên cứu và phát biểu giả thuyết.
Phần kết quả sơ khởi còn có mục đích quan trọng khác là thuyết phục người đọc rằng tác giả có kinh nghiệm. Qua phần nghiên cứu sơ khởi, người đọc có thể đánh giá tác giả hay nhóm nghiên cứu đã có sẵn kĩ thuật, phương pháp, hay công nghệ cần thiết để thực hiện công trình nghiên cứu. Có lẽ quan trọng hơn là cơ quan tài trợ cảm thấy thuyết phục rằng tác giả có thể thực hiện nghiên cứu (họ đã an tâm để “chọn mặt gửi vàng”!) Thông thường, phần này chiếm khoảng 6-8 trang giấy, và như nói trên, tác giả có thể đưa vào đó những công trình nghiên cứu liên quan đã công bố trước đây.
Ví dụ 5: Một cách trình bày hữu hiệu phần kết quả sơ khởi là trình bày theo từng mục tiêu chuyên biệt. Trong ví dụ dưới đây, tác giả trình bày
Preliminary Data
This proposal is a collaboration between the PI and Dr. Barry Hurlburt in the Department of Biochemistry and Molecular Biology. The collaboration takes advantage of the expertise of the PI in the molecular genetics of S. aureus and the biochemical expertise of Dr. Hurlburt in transcription factor structure and function (14,15). The overall goals are 1) correlation of the expression of the sarA, sarB and sarC transcripts with the production and activity of SarA, 2) characterization of the mechanism by which sar regulates expression of the S. aureus collagen adhesin gene (cna) and 3) identification and characterization of additional S. aureus genes under the direct regulatory control of SarA. We have assembled all of the experimental tools required to accomplish these objectives. Specifically, we have (i) purified SarA in a form capable of binding an appropriate DNA target, (ii) generated an affinity-purified antibody against purified SarA, (iii) constructed a xylE reporter plasmid that can be used to assess the functional activity of SarA (Specific Aim #1) and define the sequence characteristics required for the regulation of cna transcription (Specific Aim #2), (iv) cloned the regions encoding the sarA, sarB and sarC transcripts for use in complementation experiments, (v) demonstrated that SarA binds a DNA target upstream of cna and begun the process of localizing the SarA binding site and (vi) obtained or generated sar and agr mutants in both cna-positive and cna-negative S. aureus strains. The experiments done to accomplish each of these tasks are described in detail below. 
Preliminary data for Aim #1. Cloning and expression of sarA. The polymerase chain reaction (PCR) was used to amplify the sarA coding region from S. aureus strain RN6390. Utilizing NdeI and BamHI restriction sites incorporated into the oligonucleotide primers, the fragment containing the sarA coding region was cloned into the E. coli expression vector pET9A. Because the NdeI site (CATATG) in the vector overlaps an ATG start codon, cloning of the sarA coding region into the NdeI site places the sarA structural gene in perfect register with the vector-derived ribosome binding site. Recombinant proteins are therefore expressed as full-length, wild type proteins without fusions to exogenous peptide or protein tags. After cloning the sarA PCR fragment into pET9A and confirming the identity of the cloned fragment by DNA sequencing (data not shown), the recombinant plasmid (pETSarA) was used to transform E. coli strain BL21(DE3)pLysS. Transformants were grown to mid-log phase before inducing SarA expression by adding IPTG to a final concentration of 0.4 mM. After two hours, cells were harvested and lysed by sonication. The presence of SarA in the crude lysate was confirmed by SDS-PAGE followed by Coomassie Brilliant Blue staining (Fig. 7).
Preliminary data for Aim #2. Purification of SarA. A 500 ml culture of the BL21(DE3)pLysS E. coli strain containing pETSarA was induced and lysed as described above. After removing the insoluble material in the crude lysate by centrifugation, the soluble fraction was subjected to a series of ammonium sulfate precipitations culminating at 70% saturation. The pellet from each precipitation was resuspended in SDS-PAGE buffer and examined along with an aliquot of the supernatant (Fig. 8, left). The supernatant remaining after the final precipitation was found to contain ~70% SarA.


4.4 Phần phương pháp (reseach approach)
Sau phần Mục tiêu, Bối cảnh & tầm quan trọng, Nghiên cứu sơ khởi, là phần Phương pháp. Đây là phần dài nhất vì chi tiết nhất so với 2 phần trước. Mục đích của phần Phương pháp là thuyết phục người đọc rằng nhà nghiên cứu:
  • Có kế hoạch tốt để kiểm định giả thuyết đặt ra trong phần Mục tiêu;
  • Có kiến thức, kĩ năng, và phương tiện để thực hiện công trình nghiên cứu;
  • Đã nghĩ đến những tình huống xấu sẽ gặp phải và đã có kế hoạch đối phó; và
  • Diễn giải kết quả dự kiến một cách khách quan.
Nên nhớ rằng trong phần phương pháp, tác giả phải dự kiến tình huống bất lợi sẽ xảy ra trong khi thực hiện nghiên cứu. Không một nghiên cứu nào đều được tiến hành một cách “thuận bườm xuôi gió” cả. Bất cứ nghiên cứu nào cũng có vài trục trặc, không lớn thì nhỏ, và có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu. Chẳng hạn như trong nghiên cứu về loãng xương, có thể nhà nghiên cứu sẽ gặp khó khăn nếu máy DXA hư hỏng, hoặc bệnh viện thay đổi kĩ thuật viên, hoặc các mẫu sinh phẩm bị nhiễm gây khó khăn cho phân tích sinh hoá, hoặc các bệnh nhân từ chối tham gia, v.v. Tất cả những tình huống này phải được chú ý đến trước khi tiến hành nghiên cứu. Do đó, nhà nghiên cứu có kinh nghiệm phải suy nghĩ đến tình huống xấu và có kế hoạch đối phó.
Cách viết hiệu quả nhất cho phần phương pháp là viết cho từng mục tiêu. Nếu đề cương có 3 mục tiêu chuyên biệt, phần phương pháp phải có 3 phương pháp tương thích. Cấu trúc phần phương pháp có thể là:
D. Kế hoch thí nghim
D.1 Kế hoch cho mc tiêu 1  
D.1.1 Thiết kế, lí do, tầm quan trọng
D.1.2 Phương pháp cho mục tiêu 1
D.1.2.1 Cái mới
D.1.2.2 Hạn chế
D.1.2.3 Khó khăn có thể tiên đoán trước
D.1.2.4 Kế hoạch để khắc phục
D.1.2.5 Hệ quả
D.1.3 Phân tích dữ liệu
D.1.4 Diễn giải kết quả tiên đoán trước
D.2 Kế hoch cho mc tiêu 2
[…]  
D.3 Kế hoch cho mc tiêu 3
[…]

Ví dụ 6: Trong đề cương dưới đây, tác giả mô tả phần phương pháp có thể nói là rất đầy đủ. Người đọc gần như biết chính xác từng bước tác giả sắp làm gì, tại sao làm, làm như thế nào, và kết quả dự kiến ra sao.

Research Design and Methods:
The first specific aim of this grant application is to use the HFIM system to show that monotherapy with amantadine or oseltamivir carboxylate will lead to the emergence of resistance in influenza virusinfected cells and to demonstrate that the resistant viruses produced in the HFIM system under these conditions have the same mutations as those that emerge when people are treated with these drugs. In the second specific aim, we will use the HFIM system to optimize the dose and schedule of administration of current antiviral compounds effective against influenza viruses, delivered as monotherapy, to minimize the emergence of resistance. Finally, in the third specific aim we will determine the optimal dose and administration schedule of these anti-influenza virus drugs administered in combination therapy to prevent virus infection and the emergence of resistance.
Specific Aim #1. Validate the HFIM as a model experimental system for influenza virus infection and the generation of drug resistant mutants.
A. Introduction. Treatment of patients infected with type A influenza viruses with amantadine/rimantadine is known to lead to the rapid emergence of resistant viruses in the treated population (1-3). Treatment of patients with influenza with the neuraminidase inhibitors, oseltamivir carboxylate or zanamivir, usually does not lead to the emergence of resistant viruses (48). However, recent data have shown that treatment of children with influenza with oseltamivir carboxylate has led to the emergence of neuraminidase inhibitor-resistant influenza viruses (4-6). Data presented in the preliminary results section of this grant application showed that treatment of MDCK cells infected with a clinical isolate of influenza A virus in the HFIM system with amantadine can lead to the emergence of resistant viruses within two to three days of initiation of treatment. Phenotypic, but not genotypic, resistance was demonstrated when influenza virus-infected MDCK cells were treated with the D-tartrate salt of oseltamivir carboxylate in the HFIM system. The purpose of this portion of the grant application is to confirm these observations with A/Albany/1/98 influenza virus and to expand that observation for amantadine to additional influenza A viruses and for oseltamivir carboxylate to additional influenza A and B viruses.
B. Experimental Design. We will examine the effect of amantadine and oseltamivir carboxylate on the replication of wild type rgA/Vietnam/1203/2004xA/PR/8/34 (a surrogate for avian H5N1 influenza virus), A/Texas/36/91(H1N1), A/Sydney/5/97(H3N2), and A/Victoria/3/75(H3N2) in the HFIM system. For comparison, we will also include our original clinical isolate, A/Albany/1/98(H3N2), to be certain that our original observations are reproducible for amantadine and oseltamivir carboxylate. Oseltamivir carboxylate will be tested against B/Lee/40 and B/Memphis/20/96 viruses. […]
C. Expected results. Resistance will emerge under monotherapy. Amantadine resistant strains will have mutations in the M2 gene (residues 26, 27, 30, 31); neuraminidase inhibitor resistant strains will have mutations in the NA gene (residues 274 and 292) and/or HA genes (multiple residues).
D. Potential problems. It is often difficult to generate mutations in vitro in the neuraminidase genes in the presence of neuraminidase inhibitors that resemble the mutations identified in the clinic. This may be due to the use of MDCK cells which have inappropriate cell surface receptors for influenza viruses. To address this potential problem, we will use a variety of other cell lines which more closely reflect the surface characteristic of lung epithelial cells such as A549 pulmonary alveolar epithelial cells (82), St Jude porcine lung (SJPL) cells (83), ST6Gal I cells (84) or SIATI cells (85) which express cell surface receptors with more terminal sialic acid, and Mink lung cells (86) to perform these dose ranging studies aimed at producing resistant viruses in the HFIM system. It is expected that by using the appropriate cell lines, resistant strains will be produced that more accurately reflect the neuraminidase inhibitor-resistant strains that have been identified in the clinic.
E. Time frame. If this grant application is funded we will be able to purchase 4 additional duet pumps for the hollow fiber experiments thus doubling our capacity to perform these experiments. We plan to perform dose ranging experiments for amantadine and oseltamivir carboxylate on A/Victoria/3/75, A/Texas/36/91, rgA/Vietnam/1203/2004xA/PR/8/34, and A/Albany/1/98 and oseltamivir carboxylate for B/Lee/40 and B/Memphis/20/96 in the HFIM system. Each experiment will be repeated at least 1 time. One hollow fiber experiment takes approximately two weeks to perform from setup to take down. Analysis of virus yield (plaque assay, TCID50 assay and real time quantitative PCR) will take an additional two weeks. Therefore, each experiment, including a repeat, will take approximately 2 months. We plan to study at least the four type A and two type B viruses listed above for two drugs for a total of 24 hollow fiber experiments. Since we can study two viruses at a time for one drug or one virus for two drugs, Specific Aim 1 will take at least one year to complete.

Đề cương nghiên cứu được viết cho đối tượng là đồng nghiệp, nhưng là người đóng vai trò bình duyệt. Câu hỏi đặt ra là người bình duyệt kì vọng gì khi đọc một đề cương nghiên cứu. Biết được kì vọng của họ cũng là biết cách để đáp ứng. Tôi đặt mình vào vai trò người duyệt đề cương, và tôi sẽ kì vọng những điều qua những câu hỏi sau đây mà tôi muốn tìm câu hỏi:
  • Ý tưởng thú vị, cách tân, có thể đóng góp cho chuyên ngành hay không?
  • Dữ liệu sơ khởi có đủ “mạnh” hay đủ thuyết phục để tác giả tiến hành nghiên cứu này?
  • Cách tiếp cận vấn đề của tác giả có khả thi không?
  • Chứng cứ về khả năng và thành tựu của tác giả ra sao? Trong yếu tố này, tôi muốn xem qua thành tích trong thời gian 5 năm gần đây;
  • Đề cương được soạn một cách rõ ràng, logic, và đủ chi tiết hay không?
  • Cách viết trong sáng và gọn (vì điều này phản ảnh tư duy của tác giả).
Nghiên cứu khoa học đòi hỏi suy nghĩ và tính tỉ mỉ. Khoa học không chấp nhận suy nghĩ hời hợt. Những suy nghĩ mù mờ (muddle thinking) là yếu tố cho sự thất bại. Do đó, trước khi dấn thân vào nghiên cứu, các bạn nên tự vấn để quyết định. Sau đây là 15 câu hỏi mà các bạn nên tự trả lời và quyết định:
  1. Lĩnh vực nghiên cứu này có quan trọng để tiêu thì giờ?
  2. Ý tưởng nghiên cứu có thể mở rộng và đóng góp vào sự nghiệp?
  3. Bộ môn tôi đang làm việc có phù hợp với ý tưởng của tôi?
  4. Ý tưởng có phản ảnh suy nghĩ của đồng nghiệp hiện nay?
  5. Tôi đã am hiểu về y văn trong lĩnh vực này, và lĩnh vực nào cần khai thác hay tìm hiểu thêm?
  6. Nghiên cứu của tôi có thể lấp vào khoảng trống tri thức?
  7. Đã có nhiều nghiên cứu về đề tài chưa, và tôi có đóng góp gì thêm?
  8. Thời điểm thích hợp cho nghiên cứu?
  9. Nghiên cứu của tôi có gây tác động trong chuyên ngành?
  10. Trình độ chuyên môn của tôi có phù hợp với mục tiêu?
  11. Tôi có kĩ năng cần thiết cho nghiên cứu?
  12. Tôi có thì giờ để theo đuổi dự án?
  13. Tôi quyết tâm vào dự án?
  14. Tôi có phương tiện trong tay để thực hiện?
  15. Tôi có đồng nghiệp có chuyên môn để hợp tác?

Tóm lại, viết đề cương nghiên cứu là một kĩ năng rất quan trọng của một nhà khoa học. Xin nhấn mạnh là “rất quan trọng” (chứ không phải “quan trọng”). Ở các nước phương Tây, khi một nhà khoa học có khả năng viết một đề cương nghiên cứu, thì đó là một chứng cứ về sự trưởng thành của nhà khoa học, và là một nấc thang để nhà khoa học trở nên độc lập.
Trước khi kết thúc, tôi muốn kể các bạn một câu chuyện vui nhưng hoàn toàn có thật. Hôm nọ, gặp anh bạn [già] đồng nghiệp ở Melbourne, tôi hỏi anh dạo này ra sao, anh thở dài nói Thì vẫn chiến đấu với đề cương nghiên cứu. Anh hỏi tôi, và tôi cũng nói cùng số phận. Anh ấy cười nói sau khi xong cái bull fighting này chúng ta sẽ hợp tác trong một dự án rất hào hứng. Anh bạn tôi xem việc viết viết đề cương nghiên cứu để có tài trợ như là một cuộc đấu bò; tôi và anh ấy cùng lên đấu trường.  Có thể cả hai đều thất bại, cũng có thể cả hai đều thành công, hoặc chỉ một trong hai thành công. Xin tài trợ quả thật là một cuốc đấu tranh.  Không chỉ đấu tranh trên "mặt trận" ý tưởng, mà còn mặt trận chữ nghĩa! Có chữ là một chuyện, nhưng dùng chữ  sao cho thuyết phục là một kĩ năng có ý nghĩa sống còn trong cuộc đấu tranh xin tài trợ.
Xin nhắc lại rằng đề cương nghiên cứu không phải là khoa học, mà là một cách tiếp thị khoa học. Tiếp thị bằng chữ nghĩa. Ghi nhớ điểm quan trọng này để viết đề cương sao cho thuyết phục (chứ không phải để “khoe”) và tăng xác suất được tài trợ. Chúc các bạn may mắn!
N.V.T
Chú thích:
1. Đây là bài tôi viết lại từ workshop về viết đề cương nghiên cứu được thực hiện ở Đại học Quốc gia TPHCM (VNU) vào năm 2011. Trong workshop thì chỉ có những slides, chứ chưa có bài viết chi tiết, và bài này là một bài “tài liệu đọc thêm” cho các bạn. Tôi muốn nhân cơ hội này bày tỏ lòng biết ơn đến các đồng nghiệp VNU, đặc biệt là Trung tâm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực (nay là Viện đào tạo quốc tế), đã tạo điều kiện thực hiện workshop, mà theo các học viên là đã giúp ích cho họ nhiều. Một số còn “khoe” đã xin được tài trợ và học bổng nước ngoài. Xin cám ơn các bạn học viên.
2. Các bạn có thể copy và phân phối bài này cho các bạn khác (nếu cần). Nhưng tôi chỉ mong muốn một điều: ghi nguồn. Có nhiều khi tôi thấy một số không ít bài viết và dữ liệu của mình được sử dụng trong các hội nghị (và cả trên những trang báo) mà tác giả không ghi nguồn, và điều này làm tôi thấy … hơi buồn. Công sức bỏ ra rất nhiều, thu thập dữ liệu, sưu tầm những ca thú vị, rồi rút ruột và lao tâm để soạn, mà người ta sử dụng một cách “vô tư”, không có đến một chữ ghi nhận chứ chưa nói gì đến cám ơn. Nói thế thôi, chứ nếu các bạn sử dụng và có kết quả tích cực là tôi vui rồi (không cần cám ơn đâu).
3. Ngày 1/10 và 2/10 này, nhân một chuyến công tác ở Hà Nội, tôi sẽ nói về cách viết đề cương nghiên cứu ở Bệnh viện Đà Nẵng. Tôi sẽ có 6 bài giảng liên quan đến những vấn đề bàn trong bài này. Nếu các bạn có dịp tham dự thì chắc vui lắm, vì có nhiều cơ hội để thảo luận thêm. Bài này thật sự được soạn cho các học viên Đà Nẵng, và soạn trong một thời gian rất ngắn (chỉ 4 tiếng đồng hồ). Vì quá vội, nên chắc còn nhiều thiếu sót. Nếu các bạn phát hiện sai sót, xin gửi thư cho tôi biết và chỉnh sửa sau này. Tôi hi vọng sẽ có dịp quay lại bổ sung nhiều chi tiết hơn, đặc biệt là ví dụ từ VN (từ các bạn).
Nguồn nguyenvantuan.net

http://www.mchumor.com/00images/3304_grant_cartoon.gif