Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

Kĩ năng trình bày: cách nói trong hội nghị khoa học

Kĩ năng trình bày: cách nói trong hội nghị khoa học   

Trong bài trước tôi đã bàn về cách soạn slide. Tiếp theo bài trước, bài này sẽ bàn về cách nói. Trong các hội thảo khoa học, cách nói rất quan trọng, vì đó là cách mà chúng ta chuyển tải thông tin một cách trực tiếp và có khi hữu hiệu hơn những gì viết trên slide. Trong bài trước, tôi có nhấn mạnh đến một điểm: đó là không bao giờ đọc slide trong hội nghị. Không còn gì xấu hổ hơn, không còn gì thiếu chuyên nghiệp hơn là chằm chằm đọc slide, vì nó cho khán giá thấy diễn giả chẳng hiểu gì cả, chỉ đọc những gì đã viết sẵn! Trong bài này, tôi sẽ chỉ cách nói trong hội nghị sao cho … pro. :-)

Tìm hiểu

Trước khi trình bày bài nói chuyện, cần phải tìm hiểu vài thông tin cơ bản. Những thông tin cần tìm cho được là: thời lượng được ban tổ chức dành cho là bao lâu, thời gian trình bày lúc nào, kích thước hội trường, thành phần khán giả, ai là chủ tọa (chairs) và ai nói trước mình hay sau mình. Những thông tin này có ý nghĩa quan trọng đến việc cấu trúc bài nói chuyện cho phù hợp với tình hình thực tế.

Biết được thời lượng để quyết định số slides cần thiết. Mỗi slide chỉ nên tiêu ra trung bình 1 phút. Do đó, nếu được nói chuyện 30 phút, chỉ nên soạn 30 hay tối đa là 40 slide – không nên hơn số đó.

Biết được giờ cụ thể để chuẩn bị cách nói. Nếu là buổi sáng, khi khán giả vẫn còn hào hứng, thì cách nói bình thường. Nếu bài nói chuyện rơi vào buổi chiều, nhất là ngay sau giờ ăn trưa, tức là lúc người ta no nê, rất dễ buồn ngủ và khó theo dõi bài nói chuyện, thì người nói chuyện phải tìm cách nói để … không cho họ ngủ. Có những thủ thuật và câu nói có thể nâng cao sự chú ý của họ (thay vì để họ ngủ).

Biết được kích thước phòng ốc để pha màu (theo như bài hướng dẫn trước). Xin nhắc lại là nếu hội trường rộng thì slide nên được thiết kế có màu nền (background) đậm, và chữ (text) màu sáng. Nếu hội trường hẹp thì dùng màu nền sáng (như màu trắng) và chữ màu đậm (như màu đen hay xanh nước biển).

Biết được thành phần khán giả để điều chỉnh cách nói. Nếu là hội nghị quốc tế, thành phần người nghe rất có thể đa dạng, từ nghiên cứu sinh, sinh viên đến những người bậc thầy của mình, và trong trường hợp này nên chọn cách nói professional. Đó là cách nói không mang tính lên lớp, mà là bình đẳng và chứng tỏ kiến thức thâm hậu. Nếu khán giả là đồng môn nghiên cứu sinh thì nên nói một cách thân mật hơn là nói với bậc thầy. Thành phần khán giả cũng quyết định cách nói để sao cho người nghe không cảm thấy bị xúc phạm.

Tìm hiểu ai là chủ tọa để tiện việc xưng hô và nói vài câu xã giao. Thông tin cần tìm hiểu là chức danh của họ là gì? Doctor hay Professor. Nếu không rõ chức danh là gì, thì cứ gọi chung là doctor. Nếu chủ tọa là hai người nam và nữ, thì cách xưng hô hay nhất là Chairperson. Chẳng hạn như câu mở đầu là Thank you chairpersons for your kind introduction; it is my pleasure to be here to share with you some interesting data concerning the ABC. ABC là tựa đề bài nói chuyện của mình. Đó là một cách cám ơn chủ tọa đoàn một cách lịch sụ. Tôi sẽ quay lại cách nói này trong một dịp sau.

Biết được ai nói trước mình để nói một câu dạo đầu gây cảm tình. Chẳng hạn như nếu bạn được sằp xếp nói chuyện sau một bài invited lecture (bài giảng chính của diễn giả được mời), thì cách nói để cho người đó hài lòng là: I am afraid that it will be difficult to arouse your interest in what I am going to say after that outstanding presentation by Dr. Smith, hoặc I certainly enjoyed Dr. Smith’s excellent presentation; it is indeed an honor to speak after him, although I am obviously in another league and I hope I can keep your interest. Nếu tiếng Anh của mình chưa thạo lắm, thì có thể nói ngắn hơn như: That certainly is a hard act to follow, but I will do my best not to bore you. Đó là những câu nói để chứng tỏ rằng mình ứng xử “có trước có sau” và lúc nào người nói trước mình cũng vui lòng.

Ngoài ra, ngay khi trước khi nói, bạn cần phải lên bục giảng để làm quen với các công cụ. Cố gắng tìm giờ giải lao, lên bục giảng xem xét máy computer đặt ở đâu, thực hành các nút nhấn để chuyển slides, và thực hành cách đứng sao cho đối diện với khán giả (chứ không phải cứ thò đầu ra nhìn slides). Nên nhớ là bạn nói chuyện với khán giả (con người) chứ không phải nói chuyện với … slide! Phải tỏ ra mình quan tâm đến khán giả; người ta bỏ ra thì giờ đến nghe, mình phải tỏ ra tôn trọng họ.

Soạn bài nói chuyện

Đối với nghiên cứu sinh không thạo tiếng Anh, bí quyết để thành công trong bài thuyết trình là soạn sẵn bài nói chuyện. Bởi vì nhiều nghiên cứu sinh không rành tiếng Anh nên việc soạn bài nói chuyện rất cần thiết. Đó cũng là cách hệ thống hóa mình muốn nói cái gì. Khi nói soạn bài nói chuyện, tôi muốn nói rằng bạn phải soạn “diễn văn” cho mỗi slide. Ngay cả slide đầu (tựa đề) cũng nên viết ra mình muốn nói gì. Không phải viết theo kiểu chung chung, mà là viết cụ thể. Viết y như một bài nói chuyện hoàn chỉnh.   Chú ý đến văn phạm và từ ngữ sử dụng sao cho trong sáng.

Sau khi viết xong, bạn đọc và cố gắng học thuộc lòng. Cách làm đơn giản là sau khi đã tạm thuộc lòng, bạn bỏ bài nói chuyện qua một bên. Sau đó chiếu slide trên máy tính và tự mình thực tập (không cần bài nói chuyện). Giai đoạn kế tiếp là mời một đồng môn hay vài bạn bè khác đến làm khán giả, và bạn thực tập trước mặt họ. Nhờ các bạn ấy xem xét giờ (có quá giờ không), xem xét nhịp điệu nói chuyện (có monotone không), xem xét điệu bộ (có phải đứng như trời trồng không), đánh giá ánh mắt và cách giao tiếp khán giả, v.v. Sau khi xong phần thực tập thì bạn đã nắm vững câu chuyện mình sắp nói. Cho dù buổi hội thảo có cúp điện, bạn vẫn có thể nói vanh vách và tự tin. Tự tin là yếu tố rất quan trọng để thành công trong bài nói chuyện. Không có gì xấu hổ hơn là mình nói những điều mình không biết hay không nắm vững (vì như thế thì có khác gì là con vẹt). Không có gì xấu hổ hơn nói chuyện mà chẳng có cái gì là của mình, mà toàn là lấy của người khác, và vì lấy của người khác nên mình sẽ thiếu tự tin (do không hiểu có ý nghĩa gì). Do đó, tự tạo sự tự tin là cực kì quan trọng.

Đó chính là lời khuyên của tôi cho tất cả những nghiên cứu sinh đã qua lab tôi. Và, tôi có thể tự hào nói rằng 99% nghiên cứu sinh của tôi đều thành công.

Câu mở đầu

Chúng ta có câu vạn sự khởi đầu nan. Trong kĩ năng nói chuyện trước công chúng trong hội nghị khoa học, câu đó có thể hiểu là câu mở đầu rất quan trọng. Nếu câu mở đầu trôi chảy, bài nói chuyện của bạn sẽ 95% thành công. Nếu câu mở đầu lắp bắp là “triệu chứng” của thiếu tự tin, hoặc “có vấn đề”, và từ đó vấn đề sẽ tích lũy làm cho diễn tiến của bài nói chuyện càng lúc càng xấu. Hãy tin tôi.   Đó là kinh nghiệm cá nhân. Vì thế, cần phải chọn một câu mở đầu cho hay.

Theo tôi, câu mở đầu nên theo trình tự sau đây: (a) tự giới thiệu mình với khán giả; (b) nói lời cám ơn chủ tọa; (c) nói lời xã giao với người nói trước mình (như tôi mô tả trên). Cần phải nói cho cử tọa biết rằng bạn rất vui có cơ hội trình bày bài nói chuyện. Cũng nên có vài câu xã giao về thành phố tuyệt vời hay trung tâm vĩ đại mà mình đang nói chuyện (cứ khen!).

Ví dụ câu mở đầu: Good morning/afternoon/evening. Chú ý phải xem giờ mình nói chuyện. Tôi đã từng nghe người ta nói good morning trong khi giờ nói chuyện là 2 giờ chiều! Chỉ nói good evening khi sau 6 giờ chiều.

Sau đó là cám ơn chủ tọa:

Thank you, Dr. Nguyen, for your kind introduction. It is indeed my honor to be in this beautiful city to present the data to you on behalf of my colleagues.

Nếu có 2 người hay trong trường hợp tên của họ khó đọc quá thì nói:

Thank you very much, Chairperson, for your kind words of introduction.

Ngay sau đó, nói vài chữ tự giới thiệu:

My name is Thanh, and I’m a doctor from the ABC Hospital in Ho Chi Minh City.

và vài chữ xã giao và nói ngay chủ đề của bài nói chuyện, như:

It is my pleasure to be here to share with you some interesting data concerning the relationship between sex hormones and osteoporosis

hay: It is an honor to speak in such a wonderful conference. Montreal is a great city and it’s great to be here. This is my first visit to this city, and I know that it is not my last.

Cũng có khi nói “bài bản” hơn nếu ai đó mời mình nói:

I would like to thank Professor Jones for giving me this opportunity to talk to you today. In this presentation, I’m going to tell you about the effect of sex hormones on fracture risk, an area of research that I have pursued for more than 5 years …

Cũng có thể nói:

It is a pleasure/I’m very grateful/to have this opportunity to talk to you about a topic close to my heart: sex hormones and bone health.

Thỉnh thoảng cũng nhấn mạnh những gì mình không nói:

This presentation will not give you a general overview of the complications of hip replacement surgery; rather I will limit my discussion to prosthetic loosening I’m afraid that I won’t have time to delve into the interesting new developments in minimally invasive surgery, but I understand Dr. Pham will be talking about that later today.

Thỉnh thoảng cũng cám ơn đồng tác giả của mình ngay từ lúc mở đầu bài nói chuyện:

I’m presenting this paper on behalf of my colleagues, Drs. Thanh and Tran.

Hoặc: I am grateful to have the support of experienced, knowledgeable researchers like

Dr. Thanh and Dr. Tran as well as of brilliant and hardworking research fellows like Dr. Smart.

Ngay sau khi câu mở đầu xong, thì tay bạn nên sẵn sàng chuyển sang slide kế tiếp. Nên nhớ là không bao giờ để cho khán giả phải chờ! Lúc nào cũng tạo hào hứng, không có khán giả nghỉ và … ngủ.

Nội dung

Một bài nói chuyện cần có slide về nội dung mình sắp nói là gì để khán giả dễ theo dõi. Sau slide tựa đề (đã bàn trong bài 1), cần có một slide nội dung (không dài quá 6 dòng!) về những ý mình sắp trình bày trong bài nói chuyện. Tiếng Anh gọi là mapping slide. Trong mapping slide bạn có thể trình bày (tôi lấy ví dụ chuyên ngành tôi):



Bone markers and Fragility Fracture



• Bone remodeling

• Serum bone turnover markers (BTM)

• BTM and fracture risk

• Interpretation of marker values

• Conclusions





Có thể xem đó như là một slide dẫn nhập. Chú ý rằng thay vì viết Contents, tôi viết về chủ đề của bài nói chuyện “Bone markers and Fragility Fracture”. Cách viết này đòi hỏi người nói chuyện phải rành tiếng Anh và biết nói ra ngoài đề tài; nếu không rành thì nên viết Contents (hay What I am going to say) cho … chắc ăn.

Sau khi đã giới thiệu xong và nội dung, đến phần đặt câu hỏi hay đặt vấn đề. Có một vài câu nói “tủ” rất có ích mà các bạn có thể sử dụng:

The question is then ….

This made us wonder….

So, the question is this ….

Thus, we aimed to ….

Therefore, we hypothesized that….

So, we wanted to know….

Sau phần dẫn nhập, khi nói về phương pháp, bạn phải nói cho khán giả biết là mình “chuyển chủ đề”. Những câu giới thiệu phương pháp có thể là:

These were the inclusion criteria:

We excluded patients with any of the following:

We recorded the following variables:



Phương pháp dĩ nhiên có liên quan đến thiết bị, và bạn cần phải nói rõ. Có thể trình bày một slide có hình thiết bị để người ta thấy rằng công trình này có qui mô, chứ không phải loại làng nhàng, chay, hay “soft research”. Khi slide hiện, bạn mở đầu bằng cách nói:

This is the quadrature head coil we used for the MRI studies.

We used ELISA for all determinations.

All patients underwent T1- and T2-weighted MRI sequences.



Cũng có thể nói về qui trình:



We considered prostates with asymmetries, indurations, or nodules abnormal.

TIA was defined as an isolated episode of amaurosis fugax or focal cerebral dysfunction of ischemic origin with complete recovery within 24 h.



Nếu qui trình quá phức tạp, kinh nghiệm tôi cho thấy một diagram mô tả qui trình sẽ rất có ích cho khán giả theo dõi.

Đến phần kết quả (results), tức phần quan trọng, bạn cần phải ra “tín hiệu” cho khán giả biết. Nói theo ngôn ngữ thông thường là “chuyển hệ”. Chẳng hạn như bạn có thể nói:

Now I would like to turn to the results section

and shown here is some basic characteristics of participants

As you can see …



Thỉnh thoảng phải nhấn mạnh một điểm nào đó trong bài nói chuyện. Có nhiều cách nhấn mạnh (cũng là cách không để cho khán giả ngủ!), nhưng ở đây tôi bàn về cách nói, nên những câu sau đây sẽ có hiệu quả:

I want you to pay attention to THIS SLIDE (nhấn mạnh bằng cách lên giọng chữ THIS SLIDE)

This finding is very STRIKING

It is very REMARKABLE that

This is a CRUCIAL point


I can’t overestimate the importance of this point

I want to STRESS that...

I want to emphasize this point.

This is a really IMPORTANT point.

… is of paramount importance...

This is the key to understanding…

Whatever you do, do not forget that...

Do not underestimate the role of...

This is essential.

This is important, so I want to make it crystal clear/I want to be sure that you get it.

Let me point out THIS VERY RELEVANT POINT …

Vấn đề là có khi khán giả quên những gì mình nói. Đó là điều rất bình thường. Vì thế thỉnh thoảng phải nhắc lại điểm chính mình muốn nói. Cách để nói là:

In other words, ….

What I am trying to say is that ….

To put it another way, ….

What this really means is that ….

In a bit more detail,…

Let me stress AGAIN

OK, let me ELABORATE FURTHER …

Mỗi khi chuyển slide này sang slide khác, bạn cũng có thể nói một câu giới thiệu (trước khi bấm nút forward). Cách này rất hiệu quả vì giữ khán giả không rời mắt bài nói chuyện. Những câu nói phổ biến cho bối cảnh này là:

Now we’re going to look at ….

This next slide shows ….

And here you can see ….

Let’s look at a concrete example of this.

This next case (image, graph, etc.) is an example of ….

These data showed that … is important, [advance to the next slide], but these other data show that … is also important.

Another factor that plays an important role in this process is ….

Đến phần kết luận, cũng cần phải có những câu nói để người ta chú ý. Không có gì chán bằng những slide kết luận lặp lại những số liệu trong phần Results! Đó là cách trình bày thiếu chuyên nghiệp, của … trẻ con. Chúng ta là “người lớn”, nên phải trình bày chuyên nghiệp. Một cách thể hiện tính chuyên nghiệp là thể hiện qua lời nói. Mở đây phần kết luận, bạn có thể nói:   OK, I think it’s time for me to leave you, but before leaving, I would like to make a number of points as follows. Cũng có thể nói ngắn hơn như:

I’d like to take a minute to go over these three take-home points.

If you forget everything else I have discussed here today, remember these three points.

That just about wraps things up.

I hope you have enjoyed my talk.

Thank you for your attention. I would be happy to try to answer any questions you might have.

Tôi tạm ngưng ở đây để các bạn thực hành. Trong những bài sau tôi sẽ nói về cách nói / diễn giải số liệu, cách trả lời câu hỏi, cách làm chair, và cách thể hiện điệu bộ (body language).
http://nguyenvantuan.net/english/1289-ki-nang-trinh-bay-cach-noi-trong-hoi-nghi-khoa-hoc

Kĩ năng trình bày: Cách soạn powerpoint slide

Kĩ năng trình bày: Cách soạn powerpoint slide  

Tiếp theo bài trước, lần này chúng ta sẽ bàn về cách soạn slide cho các báo cáo khoa học. Đây là những qui ước và nguyên tắc chung. Trong tương lai, chúng ta sẽ bàn kĩ cách chọn biểu đồ hay bảng số liệu và thiết kế như thế nào.  Hi vọng website không mắc bệnh :-) để có cơ hội tiếp tục loạt bài này.

 Trong một hội nghị khoa học 3 ngày, một khán giả trung bình phải nhìn và nghe từ 300 đến 500 slide.  Đó là một số lượng rất lớn, và rất khó nhớ hết.  Mục tiêu của chúng ta, tác giả, là phải giúp cho người nghe lĩnh hội vấn đề nhanh, “tiêu hóa” thông tin nhanh, và chú ý vào bài báo cáo của mình.  Nguyên tắc chung là càng ít chữ, càng tốt.  Ít chữ có nghĩa là người nghe tập trung vào những gì tác giả nói (thay vì viết).  Cố nhiên, tác giả không bao giờ đọc slide.

1.  Cẩn thận với PowerPoint

Nếu chúng ta có 20 hộp sơn, chúng ta không tự nhiên trở thành họa sĩ.  Tương tự, nếu chúng ta có 20 slides, chúng ta không hẳn có một bài báo cáo – mà chỉ là một loạt slides.  Để có một báo cáo tốt, tác giả đòi hỏi phải thực tập rất nhiều.

Một trong những vấn đề của PowerPoint là tính đồng dạng.  Ba đặc điểm sau đây làm cho báo cáo khó theo dõi:

   1. Những slide đều có một format giống nhau
   2. Dùng điểm bullet trong mỗi slide
   3. Dùng một màu nền duy nhất
   4. Mỗi slide cần phải có một tựa đề

Đặc điểm 1-3 có thể làm cho người theo dõi mệt mỏi, vì lặp đi lặp lại nhiều lần.  Nếu được, cố gắng sáng chế ra nhiều màu nền khác nhau để dùng trong bài nói chuyện; nếu không có nhiều màu nền, thì chỉ dùng màu nền hết sức đơn giản.

Tựa đề trên mỗi slide cũng giống như bảng chỉ đường.  Bảng chỉ đường dẫn dắt câu chuyện một cách logic và lí thú.  Do đó, tác giả cần phải suy nghĩ cách đặt tựa đề cho mỗi slide sao cho đơn giản nhưng đủ để khán giả biết mình đang ở đâu trong câu chuyện.  Sau đây là vài hướng dẫn cho cách soạn slide.

2.  Mỗi slide chỉ nên trình bày một ý tưởng

Đây là điều quan trọng: một slide chỉ nên trình bày một ý tưởng, không nên nhồi nhét hơn một ý tưởng vào một slide.  Do đó, tất cả những bullet, dữ liệu, hoặc biểu đồ trong slide chỉ nên dùng để yểm trợ cho ý tưởng chính.

Ý tưởng của slide có thể thể hiện qua tựa đề của slide.  Nếu tựa đề slide không chuyển tải được ý tưởng một cách nhanh chóng, thì diễn giả sẽ phải tốn thì giờ giải thích, và có thể làm loãng hay làm cho khán giả sao lãng vấn đề.

3.  Slide trình bày theo công thức n x n

Một slides có quá nhiều chữ (text) sẽ làm khán giả khó theo dõi và ý tưởng bị loãng.  Mỗi slide, nếu chỉ có chữ, thì nên tuân thủ theo công thức “n by n”.  Công thức này có nghĩa là nếu quyết định mỗi slide có 5 dòng chữ thì mỗi dòng chỉ nên có 5 chữ.  Một slide không nên có quá 6 dòng chữ (n < 7).

4.  Viết slide theo công thức telegraphic

Giữa đọc và nghe, cái nào làm cho khán giả dễ theo dõi hơn? Câu trả lời là đọc,  bởi vì đọc đòi hỏi ít nỗ lực hơn là nghe.  Nếu diễn giả soạn slide với quá nhiều chữ, thì khán giả sẽ đọc chứ không nghe.  Nhưng diễn giả cần khán giả phải nghe hơn là đọc (vì họ có thể đọc bài báo hay báo cáo khoa học chi tiết hơn).  Do đó, soạn slide ngắn gọn sẽ giúp khán giả tiêu ra ít thì giờ đọc và dành nhiều thì giờ lắng nghe diễn giả.

Cách viết slide tốt nhất là cách viết telegraphic.  Đó là cách viết ngắn gọn, như phóng viên đặt tựa đề bản tin.  Nói cách khác, đó là cách viết không tuân theo văn phạm Anh ngữ, không cần phải có một câu văn hoàn chỉnh. Cụ thể là tránh dùng mạo từ (the, a/an) và cố gắng viết ngắn, bỏ những chữ không cần thiết.

Ngoài ra, cố gắng chọn những chữ ngắn nhất, những câu văn ngắn nhất (nếu có thể).  Chẳng hạn như:

Thay vì viết
  

Thì nên viết

Regarding
  

On

However
  

But

Furthermore
  

Also

Consequently
  

So

Necessary
  

Needed

Có thể lấy vài ví dụ để minh họa cho cách viết ngắn như sau:

Thay vì viết
  

Thì nên viết

We needed to make a comparison of x and y
  

We needed to compare x and y

There is a possibility that X will fail
  

X may fail

Evaluating the component
  

Evaluating components

The user decides his/her settings
  

Users decide their settings

The activity of testing is a laborious process
  

Testing is laborious

No need for the following
  

No need for

Various methods can be used to solve this problem such as
  

Methods:

5.  Dùng bullet

Bullet thường hay được sử dụng trong các bài nói chuyện bằng powerpoint, nhưng cần phải cân nhắc không nên dùng quá nhiều bullet trong một bài nói chuyện.  Nguyên tắc căn bản là không lặp lại những từ trong các bullet.  Ví dụ, thay vì viết

The advantages of using this system are

    * it will enable researchers to limit the time needed in the laboratory
    * it will help researchers to find the data they need
    * it will permit researchers to produce more accurate results

thì nên viết ngắn gọn hơn như sau:

Advantages for researchers:

    * limits lab time
    * finds relevant data
    * produces more accurate results

hay thậm chí đơn giản và chuyên nghiệp hơn:

The system enables researchers to

➢ limit lab time

➢ find relevant data

➢ produce more accurate results

6.  Dùng biểu đồ và hình ảnh

Người xưa có câu “một hình có giá trị bằng hàng vạn chữ” để nói lên tầm quan trọng của biểu đồ.  Thật vậy, chúng ta thường nhớ biểu đồ hơn là nhớ những bảng số liệu chi chít.  Chúng ta cũng dễ cảm nhận và có ấn tượng với biểu đồ hơn là con số.  Biểu đồ có giá trị rất lâu, và người ta thường trích dẫn biểu đồ trong các hội nghị khoa học.  Do đó, cần phải đầu tư thời gian để suy nghĩ về cách trình bày biểu đồ một cách có ý nghĩa.

Có nhiều dạng biểu đồ và mỗi dạng chỉ có thể áp dụng cho một tình huống cá biệt.  Một số hướng dẫn chung có thể tóm lược như sau:

Loại biểu đồ
  

Mục đích
  

Tối đa

Hình tròn (Pie chart)
  

Phần trăm, cơ cấu
  

3 – 5  slides

Biều đồ thanh (bar chart)
  

Dùng để so sánh, tương quan, xếp hạng
  

5 – 7 slides

Biểu đồ tán xạ (scatter plot)
  

Mô tả biến đổi theo thời gian, mối tương quan
  

1 – 2 slides

Bảng số liệu
  

So sánh số liệu
  

3 cột và 5 dòng

Hình ảnh cartoons
  

Minh họa
  

1 – 2 slides

Trong mỗi biểu đồ hay bảng số liệu, cần phải chú ý định danh và đơn vị của trục hoành và trục tung.  Biểu đồ hay bảng số liệu nên được thiết kế một cách đơn giản và “chiến lược” (tức nhắm vào điểm cần trình bày), không nên quá tham vọng và làm loãng chủ đề hay điểm chính của bài nói chuyện.

Nên tránh dùng hình hoạt họa, vì những hình ảnh này có thể làm giảm sự trang trọng của bài nói chuyện.  Hình hoạt họa dùng không đúng chỗ và đúng cách cũng làm cho người xem cảm thấy khó theo dõi thông điệp chính của bài nói chuyện.

7.  Font và cỡ chữ

Có hai nhóm font chữ chính: nhóm chữ không có chân (sans serif) và nhóm có chân.  Nhóm sans serif bao gồm Arial, Comic Sans, Papyrus, v.v.  Nhóm font chữ có chân bao gồm Times New Roman, Courier, Script, v.v.  Nhiều nghiên cứu tâm lí chỉ ra rằng font chữ sans serif thường dễ đọc.  Người đọc tiêu ra ít thời gian để đọc các font chữ như Arial hơn là Times hay Times New Roman.  Chính vì thế mà các “đại gia” internet như Google, yahoo, Firefox, Amazon, YouTube, v.v. đều dùng font chữ Arial, hay các font tương tự.

Về cỡ chữ (size), phần lớn các chuyên gia khuyến cáo nên dùng cỡ (size) từ 18 trở lên. Nếu dùng font chữ với cỡ <18 khán giả sẽ khó đọc, nhất là trong các hội trường rộng.  Riêng phần tựa đề, cỡ font chữ phải 40 đến 50.  Tuy nhiên, trong trường hợp phải trình bày tài liệu tham khảo thì font size khoảng 12-14 có thể chấp nhận được.

Không bao giờ dùng chữ viết hoa như THIS IS A TEST.  Chữ viết hoa được hiểu là la hét, mất lịch sự.  Ngoài ra, chữ viết hoa cũng khó đọc và khó theo dõi.  Tuy nhiên, có thể viết nghiêng hay tô đậm (bold-faced), nhưng đừng nên lạm dụng những cách viết này.  Chỉ dùng gạch đít khi cần nhấn mạnh một điều gì quan trọng; nếu không thì nên tránh cách viết này.

8.  Màu

Chọn màu cho chữ cũng là một nghệ thuật.  Màu đỏ và màu cam là màu “high-energy” nhưng rất khó tập trung.  Màu xanh lá cây, xanh nước biển, và nâu là những màu “ngọt dịu”, nhưng khó gây chú ý.  Màu đỏ và xanh lá cây có thể khó thấy đối với những người với hội chứng mù màu.

Cách chọn màu còn tùy vào bối cảnh và môi trường.  Cũng cần phân biệt màu chữ (text color) và màu nền (background color).  Tựu trung lại, kinh nghiệm cho thấy:

    * Nếu hội trường nhỏ hay giảng dạy (lecture): chọn chữ màu tối trên nền sáng.  Ví dụ như chữ màu đen hay màu xanh đậm và nền trắng;

    * Nếu hội trường rộng lớn: chọn chữ sáng trên nền tối, như chữ màu trắng / vàng trên nền xanh đậm.

Tránh slide với chữ màu xanh lá cây và màu nền đỏ (hay chữ màu đỏ trên nền màu xanh lá cây), vì rất nhiều người bị mù màu với sự kết hợp này.  Nói chung tránh chọn màu nền đỏ vì đây là loại màu “high energy” dễ làm cho mắt bị mệt và khó theo dõi.
http://nguyenvantuan.net/english/1281-ki-nang-trinh-bay-cach-soan-powerpoint-slide

Chỉ dẫn cách trình bày powerpoint trong hội nghị khoa học

Chỉ dẫn cách trình bày powerpoint trong hội nghị khoa học    


Trong loạt bài trước, tôi đã bàn về cách viết một bài báo khoa học. Nhưng trong hoạt động khoa học, việc trình bày kết quả nghiên cứu trong các hội nghị cũng quan trọng. Tuy nhiên, tôi thấy rất nhiều đồng nghiệp trong nước chưa quen với những qui ước trình bày báo cáo khoa học, chưa rành cách làm chair, và trong thực tế đã xảy ra nhiều chuyện cười ra nước mắt. Bắt đầu bằng bài này, tôi sẽ đăng một loạt bài về cách trình bày báo cáo khoa học trong các hội nghị.

Trong khoảng 10 năm gần đây, tôi có dịp tham dự và nói chuyện trong nhiều workshop, hội nghị, hội thảo ở trong nước.  Qua những lần như thế tôi phát hiện nhiều bất cập trong cách trình bày một báo cáo khoa học của nhiều đồng nghiệp.  Sau này, tôi có một loạt bài giảng về cách viết và trình bày báo cáo khoa học trong hội nghị.  Đây là loạt bài được soạn ra một cách chi tiết hơn so với những bài giảng trước đây.  Tôi ho vọng loạt bài này sẽ cung cấp vài thông tin và kinh nghiệm có ích cho các đồng nghiệp trong nước.

Trong loạt bài này, tôi sẽ chia sẻ kinh nghiệm cách trình bày báo cáo trong các hội nghị khoa học. Tôi sẽ bàn về khá nhiều chủ đề, từ cách đặt tựa đề bài nói chuyện, đến những qui tắc trong cách soạn bài nói chuyện (như font chữ, kích thước chữ) và cách soạn slide sao cho có hiệu quả nhất.  Hôm nay, tôi sẽ bắt đầu qua thảo luận cách đặt tựa đề.

Tựa đề

Tựa đề của một báo cáo khoa học hay một bài nói chuyện cũng giống như là một dòng chữ … quảng cáo.  Cũng như chuyên gia quảng cáo, diễn giả muốn có nhiều người chú ý đến bài nói chuyện của mình, muốn cử tọa hấp dẫn với nội dung của bài nói chuyện.  Để đạt được mục đích đó, cách hay nhất trong đặt tựa đề bài nói chuyện là phải đầy đủ, nhưng không quá phức tạp mà cũng đừng quá chung chung.  Tựa đề phức tạp làm người nghe không còn hấp dẫn.  Tựa đề chung chung làm người nghe không có động cơ để theo dõi và không tập trung.  Sau đây là vài chỉ dẫn cụ thể về cách đặt tựa đề sao cho hấp dẫn người nghe.

1.  Slide đầu tiên

Bài nói chuyện dĩ nhiên bắt đầu bằng slide đầu tiên, thường là slide tựa đề.  Không có qui ước nào đặt tựa đề bài nói chuyện, nhưng 2 thông tin quan trọng nhất cần phải có là:

   1. Tựa đề bài nói chuyện
   2. Tác giả và nơi làm việc

Tựa đề thường viết bằng font chữ 40 trở lên để cử tọa dễ đọc.  Ngoài ra, tôi thấy một số báo cáo, nhất là báo cáo viên là nghiên cứu sinh, còn cung cấp thêm các thông tin như:

   3. Tên và ngày hội nghị
   4. Danh sách đồng tác giả
   5. Tên và logo của trung tâm nghiên cứu
   6. Tên của thầy/cô hướng dẫn
   7. Cảm tạ
   8. Cơ quan tài trợ
   9. Hình ảnh nền (background image)

Thông tin 3 có khi cần thiết, vì nó cho thấy báo cáo viên có đầu tư thời gian để soạn tài liệu cho hội nghị.  Trong thực tế, có nhiều báo cáo viên rất lười biếng, họ sử dụng một bài nói chuyện từ hội nghị này sang hội nghị khác, chẳng có thông tin gì mới.  Cách làm lười biếng như thế rất phản tác dụng, vì người nghe chẳng những xem thường diễn giả, mà còn cảm thấy mất thì giờ đi nghe những thông tin cũ.

Thông tin 5-7 có khi không cần thiết.  Thật vậy, có thể nói phần lớn người nghe chẳng cần biết tên hay logo của trung tâm, hay tên của thầy cô, hay cảm tạ.  Tuy nhiên, những thông tin này có khi làm cho thầy cô và đồng nghiệp … hài lòng.  Nó còn cho thấy tác giả là người “biết điều”, ăn ở có trước có sau, chứ không phải vô ơn.
Thông tin 8 (tên cơ quan tài trợ) cũng có khi quan trọng. Có hội nghị yêu cầu tác giả phải nói rõ cơ quan tài trợ, và phải tuyên bố những mâu thuẫn lợi ích (conflict of interest) ngay từ slide đầu tiên để cử tọa biết.
Thông tin 9 (hình nền) có thể làm cho slide hấp dẫn hơn, nhưng cần phải chú ý đến hình ảnh.  Thông thường, hình ảnh nền là những yếu tố của công trình nghiên cứu, hay hình (có khi là bản đồ chỉ trung tâm nghiên cứu – nếu có gì để “khoe”).

Cần lưu ý rằng slide đầu tiên không nên cung cấp quá nhiều thông tin.  Nhiều thông tin trong slide như thế rất dễ làm cho cử tọa bị sao lãng.  Tùy theo hội nghị và tùy theo yêu cầu, chỉ cần tựa đề và tên tác giả có lẽ là đủ.

2.  Bỏ những câu chữ rườm rà

Một khi đã quyết định tựa đề bài báo cáo, tác giả cần phải xem xét lại một cách cẩn thận.  Cần phải xóa bỏ những từ rườm rà, vì những từ này có thể làm cho người nhìn khó lãnh hội vấn đề.  Thử xem qua những tựa đề sau đây:

    * The ligno-cellulose biomass fuel chain: a review
    * A study on producing bread in Andalucia with the acid moisture technique
    * Development of a Portable Device for Work Analysis to Reduce Human Errors in Industrial Plants

Tựa đề thứ nhất có thể thích hợp cho một bài báo, nhưng không thích hợp cho bài nói chuyện.  A review không cần thiết ở đây, vì tác giả có thể nói.  Tựa đề thứ hai thì thừa chữ A study on. Tương tự, trong tựa đề thứ ba có cụm từ Development of cũng là thừa, vì tác giả có thể đề cập khi nói chuyện.  Do đó, những tựa đề trên có thể sửa lại như sau:


    * Ligno-cellulose biomass fuel chain
    * Producing bread in Andalucia with acid moisture technique
    * A Portable Device for Work Analysis to Reduce Human Errors in Industrial Plants


3.  Tránh tựa đề mang tính quá kĩ thuật


Như đề cập trên, tựa đề bài nói chuyện như là một cái quảng cáo sản phẩm.  Do đó, nên để ý đến cách viết tựa đề hấp dẫn.  Một tựa đề hấp dẫn có khả năng thu hút sự chú ý của khán giả trong hội nghị. Người dự hội nghị thỉnh thoảng xem các bài nói chuyện ngoài lĩnh vực chuyên môn của họ, nhưng họ có thể nghĩ rằng những kiến thức và kết quả trong bài nói chuyện có thể giúp ích cho lĩnh vực nghiên cứu của họ.  Do đó, tác giả nên cố gắng đặt tựa đề sao cho khán giả cảm thấy gần gũi, không quá chi tiết kĩ thuật.

Chúng ta thử so sánh những tựa đề sau đây:

Tựa đề quá kĩ thuật
    Tựa đề hấp dẫn hơn
A Pervasive Solution for Risk Awareness in the context of Fall Prevention in the Elderly
    A Novel Solution for Preventing Fall in the Elderly
An evaluation of the benefit of the application of usability and ergonomics principles to consumer goods
    Ergonomics of consumer goods: an evaluation of benefits
Construction and validation of a carrier to shuttle nucleic acid-based drugs from biocompatible polymers to living cells
    Method for transferring nucleic acid-based
drugs from biocompatible polymers to living cells


Chú ý trong những tựa đề mang tính kĩ thuật, không có động từ.  Khi sửa tựa đề tôi cố gắng cho một động từ vào.  Tựa đề có động từ rất “lợi hại” trong báo cáo khoa học bằng miệng, bởi vì động từ cho chúng ta một cảm giác động.  Danh từ không cung cấp một ý nghĩa động.  Chú ý rằng động từ chỉ thường sử dụng cho bài nói chuyện, chứ không phải cho bài báo khoa học.

4.  Dùng tựa đề với 2 phần

Tựa đề 2 phần cung cấp thêm thông tin cho khán giả.  Do đó, một “chiến lược” gây chú ý là dùng tựa đề gồm 2 phần, và cách nhau bằng một dấu “:” hay "–".  Thử so sánh vài tựa đề sau đây:

Tựa đề một phần
    Tựa đề hai phần
Preparation, characterization, and degradability of low environmental impact polymer composites containing natural fibers
    Preventing Italy from disappearing under polyethylene bags: Using low environmental impact polymer composites
Anti-tumor activity of bacterial proteins: study of the p53-azzurine interaction
    Azzurrine binds to p53: Towards a nontoxic alternative to chemotherapy
The discoursal construction of audience identity in undergraduate assignments
    Discoursal construction of audience identity in undergraduate assignments: Who, What, How


5.  Không nên quá súc tích — dùng động từ, giới từ


Chúng ta thử đọc tựa đề sau đây:

An innovative first-year PhD student scientificEnglish didactic methodology


Thoạt đầu, tựa đề xem ra hàm chứa một ý nghĩa, nhưng khi đọc xong thì hình như nó có ý nghĩa khác.  Vấn đề ở đây là tác giả đã dùng cấu trúc tính từ + danh từ + danh từ như là tính từ.  Cụm tính từ first-year PhD student scientificEnglish didactic chính là … thủ phạm. Tính từ innovative là đề cập đến methodology, chứ không phải first-year PhD student.  Do đó, một tựa đề dễ đọc hơn có lẽ là:


An innovative methodology for teaching scientific English to first-year PhD students


Từ bài học trên, chúng ta rút ra kết luận rằng một tựa đề tốt phải:

    * Đặt tính từ trước danh từ nó đề cập đến (như innovative đề cập đến methodology chứ không phải students)
    * Có một động từ (teaching)
    * Dùng giới từ (for, to)

Một số ví dụ sau đây có thể minh họa cho nguyên lí trên.

Tựa đề không có động từ
    Tựa đề có động từ
The implementation of sustainable strategies in multinational companies
    Implementing sustainable strategies in multinational companies
TOF-SIMS: an innovative technique for the study of ancient ceramics
    TOF-SIMS: an innovative technique for studying ancient ceramics
Fault detection of a Five-Phase Permanent-Magnet Motor - a four-part solution
    Four ways to detect faults in a Five-Phase Permanent-Magnet Motor
Effect of crop rotation diversity and nitrogen fertilization on weed management in a maize-based cropping system
    How does crop rotation diversity and nitrogen fertilization affect the way weeds are managed in a maize-based cropping system?

6. Kiểm tra văn phạm!

Các qui tắc về văn phạm, nhất là cách dùng mạo từ (a, an, the), là vấn đề “nhức đầu” cho nghiên cứu sinh và nhà khoa học không quen với tiếng Anh.  Một số qui tắc văn phạm cũng có thể áp dụng cho cách đặt tựa đề.  Chúng ta thử xem qua ba tựa đề dưới đây:

Multimodality in the context of Brain-Computer Interface

Importance of role of planning and control systems in supporting interorganizational
relationships in health care sector

Iran Foreign Policy

Tựa đề thứ nhất có lẽ thiếu danh từ số nhiều (interfaces).  Tựa đề thứ hai thiếu mạo từ.  Tuy mạo từ ít khi nào dùng trong tựa đề, nhưng nếu một tựa đề dài như trên thì mạo từ cũng cần thiết.  Tựa đề thứ ba có vấn đề về hô ngữ (apostrophe).  Có thể sửa lại như sau:

Multimodality in the context of a Brain-Computer Interface/of Brain Computer
Interfaces


The importance of the role of planning and control systems in supporting interorganizational relationships in the health care sector


Iran’s Foreign Policy


7.  Kiểm tra chính tả

Tựa đề của một bài nói chuyện dứt khoát không để sai chính tả.  Điều này rất hiển nhiên, nếu đó là bài nói chuyện về luận án, hay một công trình nghiên cứu.  Tuy nhiên, tìm ra lỗi chính tả trong một tựa đề có khi đòi hỏi thời gian, nhất là đối với tác giả không quen với tiếng Anh như là tiếng mẹ đẻ.  Chúng ta thử xem xét những tựa đề sau đây:

The Rethoric of Evil in German Literature

Governance choice in railways: applying empirical transaction costs economics to the the railways of Easter Europe and the former USSR

Hearth attack! Cardiac arrest in the middle aged

Trong tựa đề đầu tiên, rethoric có vẻ không sai, bởi vì nó hao hao giống cách phát âm (mà đúng ra phải là rhetoric).  Trong tựa đề thứ hai và thứ ba, từ đúng đáng lẽ phải là Eastern và Heart. Trong trường hợp này, không có phần mềm nào có thể phát hiện Easter và Hearth. Ngoài ra, sự lặp lại (the the) cũng có khi khó phát hiện.  Những tựa đề trên có thể sửa lại:

The Rhetoric of Evil in German Literature

Governance choice in railways: applying empirical transaction costs economics to the railways of Eastern Europe and the former USSR

Heart attack! Cardiac arrest in the middle aged

8.  Suy nghĩ một tựa đề khác thay thế

Trong một hội nghị, khán giả phải nghe và nhìn nhiều bài báo cáo.  Những bài báo cáo thường có cấu trúc với tựa đề như Introduction - Methodology - Discussion - Conclusion and Future Work - Thank you for your attention - Any questions? Nếu bài báo cáo của mình được sắp xếp vào buổi cuối cùng của hội nghị, hay vào buổi trưa / chiều (tức là khán giả rất dễ … buồn ngủ), tác giả cần phải suy nghĩ cách hấp dẫn khán giả.

Một cách để không cho khán giả ngủ là không dùng những tựa đề Introduction - Methodology - Discussion – Conclusion.  Thay vì dùng những tựa đề đó trên slide, tác giả có thể đặt tựa đề sao cho mỗi slide chỉ có 1 điểm (point) duy nhất.  Chẳng hạn như nếu tôi trình bày ảnh hưởng của vitamin D đến tử vong, tôi có thể mở đầu phần dẫn nhập bằng slide với tựa đề Vitamin D and mortality – current literature. Thay vì slide là Conclusion tôi có thể viết tựa đề là Vitamin D and mortality in post-fracture mortality.  Cách viết tựa đề như thế làm cho bài báo cáo là một câu chuyện, và nó làm cho mình professional hơn, hoàn toàn khác với đám đông.

Một cách khác để đặt tựa đề cho từng phần là:

Outline: Why? Why should you be excited?

Methodology: How? Don’t try this at home

Results: What did we find? Not what we were expecting

Discussion: So what? Why should you care?

Future work: What next? Men at work
Thank you: That’s all folks. See you in the dinner table!
http://nguyenvantuan.net/english/1269-chi-dan-cach-trinh-bay-powerpoint-trong-hoi-nghi-khoa-hoc-

Trích dẫn và đạo văn

Trích dẫn và đạo văn    

Entry này được viết ra chỉ vì câu bình luận sau đây trên báo Người lao động: “Trong nghiên cứu khoa học, ai cũng biết một luật bất thành văn là luận án TS không thể nào trích dẫn, tham khảo tài liệu ở những công trình có học vị thấp hơn.” Thật ra, không có qui định nào như thế cả. Khoa học là bình đẳng.


Vấn đề đạo văn ở Việt Nam là vấn đề thời sự.  Tháng 10 năm ngoái xảy ra một vụ tai tiếng về một nhóm tác giả với 3 bài báo khoa học bị rút lại sau khi đã công bố trên một tập san quốc tế.  Trước đó, cũng xảy ra nhiều vụ tai tiếng chỉ giới hạn trong nước, và theo thời gian chìm vào quên lãng.  Nhưng mới đây báo Người lao động nêu vấn đề đạo văn qua vài trường hợp cụ thể.  Những trường hợp được nêu có lẽ chỉ là bề nổi của một tảng băng chìm.  Nạn đạo văn ở nước nào cũng khá phổ biến, nhưng ở nước ta cường độ thì có lẽ cao hơn nhiều so với các nước khác.  Vấn đề là chúng ta cần phải tìm hiểu nguyên nhân và “yếu tố nguy cơ” để có biện pháp giảm tình trạng đạo văn.

Khi nào cần trích dẫn ?

Một trong những nguyên nhân của đạo văn là không biết trích dẫn.  Kinh nghiệm của tôi cho thấy nhiều học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh, thậm chí … giáo sư chưa quen với phương pháp trích dẫn.  Điển hình cho hiểu lầm về trích dẫn là phát biểu sau đây mà bài báo trên Người lao động trích nguyên văn: “Nguyên tắc nghiên cứu khoa học, khi đã sử dụng dù chỉ một từ vẫn phải có trích dẫn chữ dùng của ai.” Tôi e rằng người phát biểu câu này nói hơi … quá lời.  Thật ra, không có nguyên tắc nào đòi hỏi người ta phải trích dẫn nếu sử dụng chỉ 1 từ cả, ngoại trừ đó là một thuật ngữ đặc biệt chưa được nhiều người biết đến.  Tuy nhiên, có qui ước: khi dùng hay sao chép hơn 3 hay 4 từ liên tục từ một nguồn thì cần phải để trong ngoặc kép hoặc đề nguồn.

Một hiểu lầm khác cũng xuất hiện, khi có ý kiến rằng “Trong nghiên cứu khoa học, ai cũng biết một luật bất thành văn là luận án TS không thể nào trích dẫn, tham khảo tài liệu ở những công trình có học vị thấp hơn. Một luận án TS mà dựa trên nghiên cứu, quan điểm của sinh viên thì khó chấp nhận.”  Tôi có thể khẳng định rằng không có qui định thành văn hay bất thành văn nào như thế cả.  Rất nhiều tập san khoa học quốc tế không cho phép tác giả đề học vị và chức danh.  Do đó, một công trình nghiên cứu trên tập san khoa học như thế, làm sao chúng ta biết tác giả đó có bằng cử nhân hay tiến sĩ?  Thật ra, khoa học rất bình đẳng trong tri thức, và trích dẫn trong khoa học không phân biệt đẳng cấp và học vị của tác giả của nguồn thông tin.

Vậy câu hỏi đặt ra là khi nào thì cần phải trích dẫn?  Theo qui định chung, tác giả cần phải trích dẫn và cung cấp tài liệu tham khảo khi:



    * Lấy nguyên văn một câu hay đoạn văn.  Đây là nguyên tắc mà có lẽ ai cũng biết.  Ví dụ:


A WHO Expert Consultation states that “overweight (≥ 25 kg/m2) corresponded to 31-39%” (WHO Expert Consutation, 2004).
thì câu viết nghiêng là nguyên văn của bản báo cáo, và thông tin trong ngoặc đơn là nguồn báo cáo, thường là tác giả và năm công bố.

    * Tóm lược và diễn đạt lại ý của tác giả gốc. Trong khoa học thực nghiệm, ít khi nào nhà khoa học chịu lấy nguyên văn của tác giả khác (vốn rất phổ biến trong khoa học xã hội), mà chỉ viết lại ý chính của tác giả trước, ví dụ như:

Low bone mineral density is a robust risk factor for fragility fracture (Nguyen et al, 1997)
Trong câu trên, câu Low bone mineral density is a robust risk factor for fragility fracture là câu văn của tác giả bài báo tóm lược ý chính trong bài báo của Nguyen và đồng nghiệp công bố vào năm 1997.

    * Trích những dữ liệu thống kê.  Vì con số thống kê là trái tim, là linh hồn của một bài báo khoa học, nên nếu tác giả trích con số của người khác thì phải cung cấp nguồn rõ ràng.

The prevalence of osteoporosis in Asian women aged 50 years and above ranged between 17% and 30% [1]
Ngay cả những con số đơn giản cũng phải đề nguồn:
Recent statistics indicated that during 1997-2004 there were ~48,500 cases of TB (or 70 per 100,000 population), and the incidence increased by around 0.2% per year, which occurred mainly in rural areas [3]
Trong cả hai ví dụ trên [1] và [3] là số của tài liệu tham khảo được liệt kê trong phần tài liệu tham khảo.

    * In lại những biểu đồ, hình ảnh.  Bất cứ hình hay biểu đồ nào được in lại trong sách, hay trong một bài báo khoa học, hay trong một slide mà không phải của tác giả thì bắt buộc phải đề nguồn.

    * Trình bày những diễn giải mang tính tranh cãi.  Một dữ liệu hay kết quả có thể được hiểu và diễn giải bằng nhiều cách khác nhau, vì người diễn giải dựa vào lăng kính khác.  Do đó, những diễn giải dữ liệu vẫn còn trong vòng tranh cãi cũng cần phải được trích dẫn và ghi nguồn.  Ví dụ:

The relationship between animal protein and bone health has been controversial.  It has long been hypothesized, but remained to be confirmed, that a high animal protein diet exerts a negative effect on bone health, because it generates a high endogenous acid load that would require buffering from bone, thus increasing bone resorption [10]

    * Trình bày kết quả nghiên cứu của người khác. Trong bài báo khoa học, có khi tác giả cần phải so sánh với kết quả của đồng nghiệp, và trong trường hợp này thì phải cung cấp tài liệu tham khảo.  Ví dụ:

The present result is consistent with a previous observation that each standard deviation decrease in BMD was associated with a 1.45-fold increase in the risk of osteoporotic fracture (Kanis, et al, 2005)

Khi nào không cần trích dẫn ?

Ai cũng biết rằng bất cứ tác giả đề cập đến thông tin từ ngoài thì tác giả phải trích dẫn nguồn thông tin.  Nhưng cũng có trường hợp tác giả không cần phải đề nguồn.  Có hai trường hợp chính:

Lí luận, ý tưởng hay thông tin của chính tác giả. Trường hợp này quá hiển nhiên.  Nếu là phát kiến của chính tác giả thì không cần trích dẫn.

Thông tin là một “common knowledge”, tức hiểu theo nghĩa “nhiều người biết”.  Những thông tin được xem là kiến thức phổ quát thì không cần trích dẫn.  Nhưng xác định thế nào là kiến thức phổ quát có khi không dễ dàng chút nào, bởi vì đường ranh giữa kiến thức phổ quát và kiến thức cần trích dẫn, mà ngay cả các chuyên gia về đạo văn cũng không đồng ý với nhau.  Chẳng hạn như nếu tôi viết Smoking is a cause of lung cancer thì có lẽ ai cũng đồng ý là common knowledge, nhưng vẫn có người trong khoa học đòi hỏi câu đó phải được trích dẫn nguồn.

Mặc dù không có tiêu chí cụ thể thế nào là kiến thức phổ quát, nhưng có 2 tiêu chí thường được sử dụng thường xuyên là: lượng thông tin và sự phổ biến. Trước hết là lượng thông tin.  Nhiều chuyên gia cho rằng một thông tin được xem là phổ quát nếu thông tin đó có thể tìm thấy từ 5 nguồn độc lập.  Kế đến là tiêu chí về phổ biến liên quan đến thông tin đó đã được nhiều người trong chuyên ngành biết hay chấp nhận.  Ví dụ câu

Many countries require that food labels announce genetically modified ingredients
được xem là common knowledge, và tác giả không cần trích dẫn.

Tương tự, Smoking is a cause of lung cancer có thể không cần trích dẫn, nhưng nếu viết cigarette smoking is associated with a three-fold increase in the risk of lung cancer thì cần phải trích dẫn, bởi vì có đề cập đến con số ở đây.  Tương tự, nếu câu

Previous research has shown that the slower kinetics observed during transitions from an elevated baseline metabolic rate were related to a slower adjustment of cardiac output and hence muscle O2 delivery

cũng cần trích dẫn, bởi có chữ research.  Bất cứ lúc nào có chữ research hay study, hay bàn về nghiên cứu của người khác, cần phải trích dẫn nguồn.

Nhận dạng đạo văn

Cần phân biệt trích dẫn và đạo văn.  Đạo văn được Hội giáo sư đại học Mĩ (American Association of University Professors) định nghĩa là lấy ý tưởng, phương pháp, hay chữ của người khác làm của mình, mà không ghi nhận nguồn gốc và tác giả.  Còn trích dẫn dưới hình thức viết lại ý của tác giả gốc là một hình thức diễn tả lại ý tưởng chính của đoạn văn gốc bằng một đoạn văn rất cô đọng và rất chung chung, mà không hẳn dùng lại những chữ của tác giả gốc.  Tuy nhiên, nếu không cẩn thận thì trích dẫn, cho dù có đề nguồn, vẫn có thể bị phạm tội đạo văn.  Chúng ta thử so sánh hai câu văn sau đây, bên trái là bản gốc, và bên phải là bản viết lại theo cách diễn giải và có trích dẫn.  Câu hỏi là tác giả có phạm tội đạo văn hay không?

Bản gốc:
There's a new class of worker out there: Nearly Autonomous, Not in the Office, doing Business in their Own Time Staff. Or nanobots, for short. Empowered by their mobile devices and remote access to the corporate network, nanobots put in long hours, sometimes seven days a week -- just not at their desks. Different from mobile workers, who usually stay in close contact with managers, nanobots thrive on their driven natures and on the personal freedom with which they are entrusted. Found at many levels of an organization, from sales managers to senior executives, they are self-starting high achievers who produce strong results with a minimum of supervision. Allowed to find their own equilibrium between work and private lives, they tend to put work first.
    Diễn giải 1:
Did you know there’s a new class of worker out there? Nearly Autonomous, Not in the Office, doing Business in their Own Time Staff—or, more simply, nanobots (Pauleen and Harmer, 2008). Empowered by their mobile devices and remote access to the company network, nanobots put in long hours, sometimes seven days a week -- just not at their desks. Unlike mobile workers, who usually stay in close contact with managers, “nanobots thrive on their driven natures and on the personal freedom with which they are entrusted,” (2008, par.2). Interestingly, they are high achievers who are self-motivated and produce good results with little supervision. They are found at many levels of an organization, from sales managers to senior executives. Allowed to find their own balance between work and personal lives, they usually put work first (2008).
Pauleen, D. & Harmer, B. (2008, Dec. 15). Away from the desk...always. Wall Street Journal Digital Network. Retrieved Dec. 22, 2008, from http://online.wsj.com/article/SB122911032462702387.html


Theo các chuyên gia, tác giả phạm tội đạo văn, vì gây ấn tượng cho người đọc rằng bản văn gốc đã được diễn giải lại, nhưng trong thực tế đã lấy nhiều câu văn của bản gốc.  Những đoạn gạch đích dưới đây là những đoạn tác giả mượn văn của bài gốc:

Did you know there’s a new class of worker out there? Nearly Autonomous, Not in the Office, doing Business in their Own Time Staff—or, more simply, nanobots (Pauleen and Harmer, 2008). Empowered by their mobile devices and remote access to the company network, nanobots put in long hours, sometimes seven days a week -- just not at their desks. Unlike mobile workers, who usually stay in close contact with managers, “nanobots thrive on their driven natures and on the personal freedom with which they are entrusted,” (2008, par.2). Interestingly, they are high achievers who are self-motivated and produce good results with little supervision, They are found at many levels of an organization, from sales managers to senior executives. Allowed to find their own balance between work and personal lives, they usually put work first (2008).

Có một qui ước chung là khi tác giả sử dụng một loạt 3 câu văn liền của bản gốc mà không để trong ngoặc kép là có thể mang tội đạo văn.

Ví dụ trên cho thầy để tránh đạo văn, tác giả cần phải luyện kĩ năng để tự diễn giải thông tin gốc.  Có 3 cách để diễn giải thông tin hay câu văn gốc: thay đổi cấu trúc câu văn, dùng những từ đồng nghĩa, và thay đổi dạng của câu văn.  Sau đây là vài ví dụ:

Thay đổi cấu trúc câu văn. Đây là cách diễn giải tốt nhất để tránh đạo văn.  Tác giả cần phải đọc đoạn văn gốc vài lần cho đến khi hiểu được ý nghĩa, rồi sau đó viết lại bằng chữ của mình.  Ví dụ:

Bản gốc của Mueller and Hancock (2001):
Instead of analyzing data with an exploratory factor analysis (where each item is free to load on each factor) and potentially facing a solution inconsistent with initial theory, a CFA can give the investigator valuable information regarding the fit of the data to the specific, theory-derived measurement model (where items load only on the factors they were designed to measure), and point to the potential weakness of specific items.
    Viết lại:
If the focus of the investigation is the connection between data and the theoretical model being used for measuement, a CFA is a better choice than an exploratory factor analysis, as the CFA is more likely to provide results that show the connection between data and theory (Mueller and Hancock, 2001)

Dùng từ đồng nghĩa. Cũng có khi câu văn ngắn nên viết lại cũng khó khăn.  Trong trường hợp này, có thể thay thế những từ đồng nghĩa.  Ví dụ:

Bản gốc của Johnson et al (2008):
Optimizing peak bone mass during the early years is thought to be a key factor in preventing osteoporosis later in life.
    Viết lại:
To prevent osteoporosis,  experts believe it is important to build bone mass before adulthood (Johnson et al., 2008).


Thay đổi cách dạng của câu văn. Thông thường một câu văn ngắn có thể thay thế bằng cách đổi từ văn thụ động sang chủ động (hay ngược lại) và thay đổi từ.  Chẳng hạn như:

Earth-friendly products are being purchased more often by consumers
    Increasing, shoppers are choosing to buy environmentally safe products

Trích dẫn và diễn giải là hai hình thức rất phổ biến trong văn chương khoa học để tránh đạo văn.  Trích dẫn có lẽ không khó, nhưng diễn giải thì khó hơn vì đòi hỏi tác giả phải am hiểu ngữ vựng tiếng Anh, hiểu ý nghĩa câu văn gốc, và có kĩ năng cách một cách trôi chảy.  Ở đây, tôi thấy cần phải nhắc lại hai điểm mà tôi đã đề cập trong phần đầu để tránh ngộ nhận: không ai đòi hỏi phải trích dẫn nếu chỉ dùng một từ của bản văn gốc, và không có qui định nào nói rằng chỉ trích dẫn những tác giả có học vị cao hơn mình.  Khoa học là một hoạt động bình đẳng.  Người có công phát kiến, bất kể có văn bằng gì, sẽ được ghi nhận qua trích dẫn và tham khảo một cách hợp lí.  Đó chính là một nét văn hóa khoa học chẳng xa lạ gì với người Việt chúng ta: nói có sách, mách có chứng.

NVT
======


http://nld.com.vn/20110416094351456p0c1017/bi-hai-luan-an-luoc.htm
Bi hài luận án “luộc”

Thứ Bảy, 16/04/2011 21:52

Không ít luận án tiến sĩ đã qua mắt được hội đồng bảo vệ nhưng lại là luận án “luộc” với nhiều chuyện bi hài

Tiến sĩ (TS) Trần Thị Mai Nhân, giảng viên Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, rất bức xúc khi luận văn thạc sĩ của mình về đề tài văn học Việt Nam trong chiến tranh đã bị nghiên cứu sinh tên K., giảng viên của một trường ĐH khác, sao chép nguyên văn rất nhiều đoạn để đưa vào luận án TS của ông ta mà không hề có một dòng trích dẫn.

Đạo văn do...chưa có kinh nghiệm!

Trong luận án TS của ông K., phần phụ lục cũng không hề có dòng nào về việc tham khảo tài liệu của TS Mai Nhân. Điều đáng nói là sau khi bảo vệ thành công luận án TS năm 2000, ông K. đã trích một phần luận án để in thành sách, phát hành vào năm 2006. Khi cầm trên tay cuốn sách này, TS Mai Nhân mới té ngửa bởi công trình chính mình viết ra được tác giả “cóp” nguyên văn nhiều đoạn.

“Nguyên tắc nghiên cứu khoa học, khi đã sử dụng dù chỉ một từ vẫn phải có trích dẫn chữ dùng của ai. Trong khi đó, ông K. dùng nguyên văn khá nhiều đoạn trong luận văn của tôi mà không hề có một dòng trích dẫn thì thật khó chấp nhận” - TS Mai Nhân bức xúc.

Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, ông K. lý giải khi làm luận án TS - cách đây 15 năm - ông còn rất trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm. “Tôi thừa nhận đã sơ suất khi dùng luận văn của TS Nhân mà không trích dẫn. Một người bạn đã photocopy giùm tôi cuốn tài liệu này nhưng lại không có bìa. Lúc đó, vấn đề tôi nghiên cứu còn có nhiều tranh cãi, tôi đọc được cuốn tài liệu này thấy rất tâm đắc nên sử dụng một số đoạn mà không biết tác giả là ai”.

Ông K. cho biết khi TS Mai Nhân lên tiếng, ông mới biết đã sử dụng luận văn của bà. “Tôi đã viết thư xin lỗi TS Nhân và sẽ mua lại toàn bộ sách đã xuất bản của mình còn lại ở các nhà sách. Nếu tái bản, tôi sẽ phải bỏ hoàn toàn những đoạn sử dụng trong luận văn của TS Nhân” - ông K. khẳng định. Ông K. cũng hứa sẽ in lại cả luận án TS, trong đó bổ sung phần trích dẫn những đoạn đã sử dụng luận văn của TS Mai Nhân.

Vô tư dùng cứ liệu của học trò

Luận án “So sánh một số đặc điểm cú pháp – ngữ nghĩa của tục ngữ tiếng Việt và tiếng Hàn” là một công trình khá công phu với phần trình bày cả tiếng Việt lẫn tiếng Hàn của tác giả T.

Một số chuyên gia nhận định đây là luận án nghiên cứu chuyên sâu liên quan trực tiếp đến kiến thức ngữ pháp – ngữ nghĩa không phải của câu văn bình thường mà là tục ngữ tiếng Hàn, chứng tỏ tác giả phải am hiểu chuyên sâu cả tiếng Việt và tiếng Hàn. Tuy nhiên, một số chuyên gia về tiếng Hàn đã chỉ ra rất nhiều lỗi trong luận án này mà một người biết tiếng Hàn ở trình độ sơ – trung cấp đều có thể phát hiện.

Trong luận án TS, tác giả T. lại sử dụng tài liệu tham khảo của không ít khóa luận tốt nghiệp của sinh viên liên quan đến tục ngữ. Thậm chí, luận văn của sinh viên được tác giả luận án đánh giá là “những ngữ liệu quan trọng” để sử dụng trong công trình bậc học TS của mình.

“Trong nghiên cứu khoa học, ai cũng biết một luật bất thành văn là luận án TS không thể nào trích dẫn, tham khảo tài liệu ở những công trình có học vị thấp hơn. Một luận án TS mà dựa trên nghiên cứu, quan điểm của sinh viên thì khó chấp nhận” - một chuyên gia về giáo dục sau ĐH nhận định.

Một giảng viên Việt Nam tại Hàn Quốc đã từng được TS T. nhờ sưu tầm, dịch một số tài liệu từ tiếng Hàn sang tiếng Việt cho luận án trên cho biết tác giả đã sử dụng phần dịch của bà ở nhiều cước chú nhưng không ghi tên, chức danh, học vị của bà. “Như vậy, sẽ không có căn cứ khoa học cho phần dịch này và người đọc sẽ hiểu chính tác giả là người dịch đoạn đó” - giảng viên này nhận xét.

Luận án của tác giả T. đã được bảo vệ thành công vào ngày 16-4-2007. Theo tìm hiểu của chúng tôi, hội đồng bảo vệ luận án gồm 7 người và… không ai thành thạo tiếng Hàn!

Đủ kiểu đạo văn

PGS-TS Trần Hữu Tá, nguyên chủ nhiệm Khoa Văn Trường ĐH Sư phạm TPHCM, thừa nhận tình trạng đạo luận án ngày càng tinh vi. “Học viên chỉ “luộc” cái khá, còn cái tồi thì không “luộc”. Bởi vậy, gặp những luận án hầu hết được viết rất thô thiển nhưng có đoạn lại bay bổng, trau chuốt là chúng tôi biết tác giả đã đạo văn” - PGS-TS Trần Hữu Tá cho biết.

PGS-TS Nguyễn Thiện Tống, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Cửu Long, nhận định có rất nhiều kiểu đạo văn khó phát hiện như ghi nguồn tham khảo nhưng lại không ghi rõ trích dẫn, trong đó xào xáo một phần tài liệu tham khảo, trộn với phần của mình hoặc pha trộn nhiều tài liệu tham khảo khác nhau thành của mình; thay đổi từ ngữ nhưng ý tứ thì ăn cắp…

Ngoài ra, còn có các kiểu đạo văn trắng trợn như “cóp” nguyên xi của người khác mà không cho vào ngoặc kép và ghi nguồn trích dẫn; trích dẫn thật nhiều đoạn khác nhau mà không có chữ nào của mình.... “Dùng bất cứ tài liệu nào của người khác mà không ghi nguồn đều được coi là đạo văn và vi phạm Luật Bản quyền” - PGS-TS Nguyễn Thiện Tống nhìn nhận. Ông Tống cũng cho rằng đạo văn dù ở dạng nào cũng là hành vi “đánh lừa”, “ăn cắp nguy hiểm”,  cần phải lên án và loại bỏ.

Dù biết đạo văn là không thể chấp nhận trong nghiên cứu khoa học nhưng nhiều luận án “luộc” đã qua mắt được hội đồng bảo vệ. Một PGS từng là thành viên trong hội đồng bảo vệ nhiều luận án TS cho biết có rất nhiều trường hợp trong luận án không đạo từng đoạn mà chỉ đạo từng câu nên rất khó phát hiện. Bên cạnh đó, học viên thường sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau mà không phải lúc nào thành viên hội đồng cũng có thể tham khảo hết nguồn tài liệu đó.

Quy trình kín mà hở

Một nguyên nhân khác khiến việc đạo văn trong các luận án TS vẫn có đất sống, theo PGS-TS Trần Hữu Tá, là do quy trình làm luận án chưa có khâu kiểm tra cụ thể. Luận án TS hiện được làm theo các bước: Học viên nhận đề tài, thực hiện trong 3 năm cùng thầy hướng dẫn; sau đó nộp, bảo vệ cấp cơ sở, góp ý sửa chữa, phản biện độc lập, bảo vệ trước hội đồng… PGS-TS Trần Hữu Tá cho rằng quy trình này đã tạo ra kẽ hở để học viên không học vẫn có luận án, rồi có bằng TS.

PGS-TS Trần Hữu Tá kể lại một trường hợp học viên bảo vệ luận án về nghệ thuật trào phúng trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Luận án rất tốt nhưng thành viên hội đồng nghi ngờ đạo văn liền đề nghị học viên tóm tắt tiểu thuyết Số đỏ trong vòng 5-10 phút - một yêu cầu đơn giản mà học sinh THPT có thể làm được. Thế nhưng, học viên bảo vệ luận án TS này lại ấm ớ rồi cúi đầu!

Một chuyên gia giáo dục sau ĐH cũng cho biết khâu phản biện độc lập hiện kín mà chưa kín. Nhiều khi ông đang thực hiện phản biện độc lập nhưng lại có điện thoại gửi gắm, kiểu: “Học trò của mình đấy, chiếu cố chút nhé”! Theo chuyên gia này, những luận án lôm côm hoặc có đạo văn có thể phát hiện được nhưng vẫn tồn tại quan niệm “luận án là lý bên trong có tình” nên đôi khi nhắm mắt cho qua mà trong lòng ngao ngán. Quá trình làm và bảo vệ luận án tưởng chặt nhưng lại hở, đôi khi tưởng là thứ thiệt mà lại dỏm.

PGS-TS Trần Hữu Tá cho rằng để ngăn ngừa nạn đạo văn, quy trình làm và bảo vệ luận án TS cần chặt chẽ, nghiêm ngặt hơn, tránh những đề tài na ná nhau nhưng vẫn được thực hiện. Trong quá trình thực hiện cần có những đợt kiểm tra kiến thức cơ bản liên quan đến đề tài mà học viên đang theo đuổi. Nghiên cứu sinh phải tập trung tại trường ít nhất 3 lần để làm chuyên đề kiểm tra tại chỗ.

Ngoài ra, học viên cần phải có những buổi thuyết trình về đề tài trong quá trình thực hiện luận án. Nếu không chuẩn bị, không có kiến thức mà đi “đạo” của người khác thì không thể nào đáp ứng được các kỳ kiểm tra tại chỗ và các buổi thuyết trình. Bên cạnh đó, phải có biện pháp chế tài đối với các trường hợp luận án bị phát hiện đạo văn.

“Nguyên tắc nghiên cứu khoa học, khi đã sử dụng dù chỉ một từ vẫn phải có trích dẫn chữ dùng của ai. Trong khi đó, ông K. dùng nguyên văn khá nhiều đoạn trong luận văn của tôi mà không hề có một dòng trích dẫn thì thật khó chấp nhận” - TS Mai Nhân bức xúc.

Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, ông K. lý giải khi làm luận án TS - cách đây 15 năm - ông còn rất trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm. “Tôi thừa nhận đã sơ suất khi dùng luận văn của TS Nhân mà không trích dẫn. Một người bạn đã photocopy giùm tôi cuốn tài liệu này nhưng lại không có bìa. Lúc đó, vấn đề tôi nghiên cứu còn có nhiều tranh cãi, tôi đọc được cuốn tài liệu này thấy rất tâm đắc nên sử dụng một số đoạn mà không biết tác giả là ai”.

Ông K. cho biết khi TS Mai Nhân lên tiếng, ông mới biết đã sử dụng luận văn của bà. “Tôi đã viết thư xin lỗi TS Nhân và sẽ mua lại toàn bộ sách đã xuất bản của mình còn lại ở các nhà sách. Nếu tái bản, tôi sẽ phải bỏ hoàn toàn những đoạn sử dụng trong luận văn của TS Nhân” - ông K. khẳng định. Ông K. cũng hứa sẽ in lại cả luận án TS, trong đó bổ sung phần trích dẫn những đoạn đã sử dụng luận văn của TS Mai Nhân.

Vô tư dùng cứ liệu của học trò

Luận án “So sánh một số đặc điểm cú pháp – ngữ nghĩa của tục ngữ tiếng Việt và tiếng Hàn” là một công trình khá công phu với phần trình bày cả tiếng Việt lẫn tiếng Hàn của tác giả T.

Một số chuyên gia nhận định đây là luận án nghiên cứu chuyên sâu liên quan trực tiếp đến kiến thức ngữ pháp – ngữ nghĩa không phải của câu văn bình thường mà là tục ngữ tiếng Hàn, chứng tỏ tác giả phải am hiểu chuyên sâu cả tiếng Việt và tiếng Hàn. Tuy nhiên, một số chuyên gia về tiếng Hàn đã chỉ ra rất nhiều lỗi trong luận án này mà một người biết tiếng Hàn ở trình độ sơ – trung cấp đều có thể phát hiện.

Trong luận án TS, tác giả T. lại sử dụng tài liệu tham khảo của không ít khóa luận tốt nghiệp của sinh viên liên quan đến tục ngữ. Thậm chí, luận văn của sinh viên được tác giả luận án đánh giá là “những ngữ liệu quan trọng” để sử dụng trong công trình bậc học TS của mình.

“Trong nghiên cứu khoa học, ai cũng biết một luật bất thành văn là luận án TS không thể nào trích dẫn, tham khảo tài liệu ở những công trình có học vị thấp hơn. Một luận án TS mà dựa trên nghiên cứu, quan điểm của sinh viên thì khó chấp nhận” - một chuyên gia về giáo dục sau ĐH nhận định.

Một giảng viên Việt Nam tại Hàn Quốc đã từng được TS T. nhờ sưu tầm, dịch một số tài liệu từ tiếng Hàn sang tiếng Việt cho luận án trên cho biết tác giả đã sử dụng phần dịch của bà ở nhiều cước chú nhưng không ghi tên, chức danh, học vị của bà. “Như vậy, sẽ không có căn cứ khoa học cho phần dịch này và người đọc sẽ hiểu chính tác giả là người dịch đoạn đó” - giảng viên này nhận xét.

Luận án của tác giả T. đã được bảo vệ thành công vào ngày 16-4-2007. Theo tìm hiểu của chúng tôi, hội đồng bảo vệ luận án gồm 7 người và… không ai thành thạo tiếng Hàn!

Đủ kiểu đạo văn

PGS-TS Trần Hữu Tá, nguyên chủ nhiệm Khoa Văn Trường ĐH Sư phạm TPHCM, thừa nhận tình trạng đạo luận án ngày càng tinh vi. “Học viên chỉ “luộc” cái khá, còn cái tồi thì không “luộc”. Bởi vậy, gặp những luận án hầu hết được viết rất thô thiển nhưng có đoạn lại bay bổng, trau chuốt là chúng tôi biết tác giả đã đạo văn” - PGS-TS Trần Hữu Tá cho biết.

PGS-TS Nguyễn Thiện Tống, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Cửu Long, nhận định có rất nhiều kiểu đạo văn khó phát hiện như ghi nguồn tham khảo nhưng lại không ghi rõ trích dẫn, trong đó xào xáo một phần tài liệu tham khảo, trộn với phần của mình hoặc pha trộn nhiều tài liệu tham khảo khác nhau thành của mình; thay đổi từ ngữ nhưng ý tứ thì ăn cắp…

Ngoài ra, còn có các kiểu đạo văn trắng trợn như “cóp” nguyên xi của người khác mà không cho vào ngoặc kép và ghi nguồn trích dẫn; trích dẫn thật nhiều đoạn khác nhau mà không có chữ nào của mình.... “Dùng bất cứ tài liệu nào của người khác mà không ghi nguồn đều được coi là đạo văn và vi phạm Luật Bản quyền” - PGS-TS Nguyễn Thiện Tống nhìn nhận. Ông Tống cũng cho rằng đạo văn dù ở dạng nào cũng là hành vi “đánh lừa”, “ăn cắp nguy hiểm”,  cần phải lên án và loại bỏ.

Dù biết đạo văn là không thể chấp nhận trong nghiên cứu khoa học nhưng nhiều luận án “luộc” đã qua mắt được hội đồng bảo vệ. Một PGS từng là thành viên trong hội đồng bảo vệ nhiều luận án TS cho biết có rất nhiều trường hợp trong luận án không đạo từng đoạn mà chỉ đạo từng câu nên rất khó phát hiện. Bên cạnh đó, học viên thường sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau mà không phải lúc nào thành viên hội đồng cũng có thể tham khảo hết nguồn tài liệu đó.

Quy trình kín mà hở

Một nguyên nhân khác khiến việc đạo văn trong các luận án TS vẫn có đất sống, theo PGS-TS Trần Hữu Tá, là do quy trình làm luận án chưa có khâu kiểm tra cụ thể. Luận án TS hiện được làm theo các bước: Học viên nhận đề tài, thực hiện trong 3 năm cùng thầy hướng dẫn; sau đó nộp, bảo vệ cấp cơ sở, góp ý sửa chữa, phản biện độc lập, bảo vệ trước hội đồng… PGS-TS Trần Hữu Tá cho rằng quy trình này đã tạo ra kẽ hở để học viên không học vẫn có luận án, rồi có bằng TS.

PGS-TS Trần Hữu Tá kể lại một trường hợp học viên bảo vệ luận án về nghệ thuật trào phúng trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Luận án rất tốt nhưng thành viên hội đồng nghi ngờ đạo văn liền đề nghị học viên tóm tắt tiểu thuyết Số đỏ trong vòng 5-10 phút - một yêu cầu đơn giản mà học sinh THPT có thể làm được. Thế nhưng, học viên bảo vệ luận án TS này lại ấm ớ rồi cúi đầu!

Một chuyên gia giáo dục sau ĐH cũng cho biết khâu phản biện độc lập hiện kín mà chưa kín. Nhiều khi ông đang thực hiện phản biện độc lập nhưng lại có điện thoại gửi gắm, kiểu: “Học trò của mình đấy, chiếu cố chút nhé”! Theo chuyên gia này, những luận án lôm côm hoặc có đạo văn có thể phát hiện được nhưng vẫn tồn tại quan niệm “luận án là lý bên trong có tình” nên đôi khi nhắm mắt cho qua mà trong lòng ngao ngán. Quá trình làm và bảo vệ luận án tưởng chặt nhưng lại hở, đôi khi tưởng là thứ thiệt mà lại dỏm.

PGS-TS Trần Hữu Tá cho rằng để ngăn ngừa nạn đạo văn, quy trình làm và bảo vệ luận án TS cần chặt chẽ, nghiêm ngặt hơn, tránh những đề tài na ná nhau nhưng vẫn được thực hiện. Trong quá trình thực hiện cần có những đợt kiểm tra kiến thức cơ bản liên quan đến đề tài mà học viên đang theo đuổi. Nghiên cứu sinh phải tập trung tại trường ít nhất 3 lần để làm chuyên đề kiểm tra tại chỗ.

Ngoài ra, học viên cần phải có những buổi thuyết trình về đề tài trong quá trình thực hiện luận án. Nếu không chuẩn bị, không có kiến thức mà đi “đạo” của người khác thì không thể nào đáp ứng được các kỳ kiểm tra tại chỗ và các buổi thuyết trình. Bên cạnh đó, phải có biện pháp chế tài đối với các trường hợp luận án bị phát hiện đạo văn
NVT