Trước
đây, tôi có viết một loạt bài chỉ ra những lí do tại sao một bài báo
khoa học bị từ chối. Nay tôi xin trình bày 10 nguyên tắc để nâng cao xác
suất bài báo khoa học được công bố trên các tập san quốc tế. Bài này
dựa vào kinh nghiệm cá nhân (trong các tập san y khoa) là phần lớn, nên
có thể những nguyên tắc này không hẳn áp dụng cho các ngành khác.
Phải
nói ngay rằng không có một qui định hay một công thức nào để đảm bảo
bài báo khoa học được công bố trên một tập san quốc tế. Tùy theo tập
san, xác suất công bố bài báo khoa học có khi chỉ là một sự may mắn.
Cùng một công trình và cùng một đề tài, nhưng có công trình được đăng,
còn công trình khác thì đành xếp trong ngăn tủ. Tuy nhiên, nếu chúng ta
chuẩn bị tốt thì xác suất được công bố vẫn cao hơn là không chuẩn bị.
“Chuẩn bị” ở đây có nghĩa là tuân thủ theo một số chỉ dẫn mà những người
đi trước hay từng phục vụ trong các ban biên tập vạch ra. Trong thực
tế, đã có nhiều bài báo trên các tập san chỉ dẫn cách thức tăng cơ may
cho công trình được công bố trên tập san khoa học. Thay vì làm theo kiểu
bài bản đó, ở đây tôi chỉ muốn chia sẻ vài kinh nghiệm cá nhân.
Nguyên lí 1: Cấu trúc bài báo một cách logic
Bài báo khoa học, nhất là trong y học, thường được cấu trúc theo công thức IMRAD (introduction - dẫn nhập, methods - phương pháp, results - kết quả, và discussion
- bàn luận). Tuy nhiên cũng có vài tập san có cấu trúc khác với cấu
trúc trên, với phần dẫn nhập đến kết quả và bàn luận, còn phần phương
pháp thì để sau cùng. Do đó, cần phải xem xét đến qui định của tập san
để cấu trúc bài báo cho thích hợp. Nhưng dù là cấu trúc nào, thì tất cả
những dữ liệu trong mỗi phần phải được trình bày một cách logic và mang
tính liên tục. Nếu phần dẫn nhập đề cập đến 3 mục đích, thì phần phương
pháp phải mô tả cách giải quyết 3 mục đích đó ra sao, phần kết quả phải
trình bày kết quả cho từng mục đích, và phần bàn luận cũng phải bám sát
với 3 mục đích đó.
Nói
thì tương đối dễ, nhưng khi bắt đầu viết thì không dễ chút nào, bởi vì
một nghiên cứu có rất nhiều dữ liệu, mà trình bày dữ liệu nào để biện
minh cho lí giải của mình là một quyết định không dễ dàng. Một qui ước
đơn giản là nếu phần kết quả phải ăn khớp với phần phương pháp. Chẳng
hạn như nếu phần phương pháp đề cập đến đo đường trong máu, mà phần kết
quả không nói gì đến chỉ số sinh hóa này thì đó là điều không chấp nhận
được. Do đó, cấu trúc bài báo và dữ liệu trong bài báo đóng vai trò quan
trọng số 1 để tăng khả năng bài báo được chấp nhận cho công bố.
Nguyên lí 2: Phát biểu câu hỏi nghiên cứu và lí do nghiên cứu cho rõ ràng
Phần dẫn nhâp cần phải trả lời cho được 3 câu hỏi: câu hỏi chung, câu hỏi chuyên biệt, và nghiên cứu này có xứng đáng không?
Một
phát biểu về câu hỏi nghiên cứu hay giả thuyết trong phần dẫn nhập rất
quan trọng cho người bình duyệt bài báo hiểu được ý định của tác giả là
gì và nghiên cứu này nằm ở đâu trong bức tranh tổng thể của chuyên
ngành. Cần phải viết bằng cụ thể và đơn giản (không mĩ từ) như "We set out to determine whether condition x produces condition y"
để người đọc có thể hiểu dễ dàng. Một phát biểu không rõ ràng, kiểu như
"fishing expedition" hay "look-and-see approach" rất “nguy hiểm” vì dễ
bị từ chối ngay từ đầu, vì nó cho thấy tác giả không định vị được nghiên
cứu của mình nằm ở đâu. Người đọc, cũng như các chuyên gia bình duyệt,
thường đặt câu hỏi như tại sao họ làm nghiên cứu này, có câu hỏi nào
chưa được trả lời hay không, câu hỏi có đủ tầm quan trọng để mình quan
tâm, v.v. Nhưng nếu viết chung chung và không trực tiếp đi vào vấn đề
thì rất dễ làm cho chuyên gia bình duyệt bác bỏ bài báo.
Một
yếu tố phổ biến trong các lí do từ chối bài báo là tác giả không thuyết
phục được tầm quan trọng của nghiên cứu. Ngoài câu hỏi cụ thể mà công
trình nghiên cứu muốn trả lời, tác giả cần phải lí giải tầm quan trọng
của nghiên cứu, và giúp cho người đọc cũng như người bình duyệt nhận
thức được vấn đề và đặt vào bối cảnh của họ. Cách thức để nêu tầm quan
trọng là chứng minh rằng vấn đề phổ biến (hay tương đối phổ biến), hệ
quả nghiêm trọng về kinh tế và y tế, có ảnh hưởng đến thực hành lâm
sàng, v.v.
Nguyên lí 3: Giải thích phương pháp và dữ liệu một cách có hệ thống
Một
trong những lí do phổ biến mà chuyên gia bình duyệt từ chối bài báo là
họ không hiểu đầy đủ công trình nghiên cứu đã được thực hiện ra sao. Vấn
đề này thường do tác giả không mô tả đầy đủ qui trình làm thí nghiệm
hay qui trình thu nhập dữ liệu, từ lúc đo lường, công cụ đo lường, đến
phân tích dữ liệu, nếu không mô tả đầy đủ thì đồng nghiệp sẽ rất khó lặp
lại nghiên cứu.
Một
cách viết phần phương pháp là viết theo qui trình … nấu ăn. Qui trình
nấu ăn đòi hỏi người thợ nấu phải chuẩn bị nồi niêu, nguyên liệu, gia
vị, v.v. và sau đó là làm từng bước một theo một công thức đã được định
trước. Tương tự, một nghiên cứu y khoa cũng cần phải mô tả như thế.
Chẳng hạn như cách chọn bệnh nhân ra sao, tiêu chuẩn loại trừ và tiêu
chuẩn chọn, qui trình theo dõi và xét nghiệm, phương pháp xét nghiệm,
v.v. Phải mô tả sao cho người đọc có thể nắm lấy phương
Viết
phần phương pháp cho đạt là một điều khó khăn cho một tác giả. Điều này
đúng vì đối với các công trình có sự hợp tác của nhiều chuyên gia từ
nhiều chuyên ngành, thì không ai có thể viết cho thích hợp. Nếu viết quá
chi tiết về một phương pháp nào đó (ví dụ như phương pháp xét nghiệm)
thì có thể làm cho người đọc chuyên môn về laboratory medicine bắt bẽ,
hay nếu viết quá chi tiết phần phân tích dữ liệu sẽ làm cho các người
đọc nghi ngờ chắc công trình nghiên cứu có vấn đề. Nếu công trình nghiên
cứu được thiết kế tốt thì không cần đến những phương pháp phân tích
phức tạp. Do đó, cái khó là làm sao viết không quá sơ đẳng như sinh viên
làm bài tập hay trả bài (kiểu như trình bày cả công thức ước tính cỡ
mẫu!), nhưng cũng không viết quá chung chung vì sẽ làm cho người đọc
nghĩ rằng tác giả chẳng hiểu vấn đề. Chỉ có người trong chuyên ngành có
kinh nghiệm mới biết viết như thế nào là đủ. Trong vài trường hợp phức
tạp, cách tốt nhất là trình bày một giãn đồ để người đọc dễ theo dõi.
Nguyên lí 4: Cấu trúc phần kết quả và phương pháp ăn khớp nhau
Kinh
nghiệm của tôi cho thấy phần lớn những khiếm khuyết trong phần kết quả
có thể nằm trong 3 nhóm sau đây: sắp xếp kết quả lộn xộn, trình bày
không đầy đủ, kết quả không ăn khớp với phần phương pháp.
Thứ
nhất, có những bài báo mà kết quả được trình bày chẳng theo một thứ t75
logic nào cả. Tình trạng này dẫn đến lẫn lộn cho người đọc, và họ sẽ
rất dễ bỏ cuộc. Thông thường, các nghiên cứu y khoa thường bắt đầu phần
kết quả với những thông tin về đối tượng nghiên cứu, sau đó là những kết
quả chính, và cuối cùng là những kết quả mang tính củng cố cho phần kết
quả chính. Phải có một bảng số liệu, một biểu đồ, hay một bức ảnh “ăn
tiền” (còn gọi là money picture) để người đọc biết đó là điểm chính của bài báo.
Thứ
hai, có nhiều bài báo mà phần kết quả trình bày không đầy đủ. Không đầy
đủ ở đây có nghĩa là tương quan với phần phương pháp. Chẳng hạn như có
nghiên cứu viết trong phần phương pháp rằng họ đo lường tỉ trọng mỡ
trong cơ thể bằng DXA, nhưng phần kết quả thì chỉ trình bày WHR. Điều
này dễ làm cho người đọc nổi giận, vì nói theo người Việt chúng ta là treo đầu dê bán thịt chó.
Lại có những bài báo mà tác giả không thấy trình bày kết quả mà họ đã
tuyên bố là đã thu thập trong phần phương pháp. Đây là một đại kị, bởi
vì nó gây một ấn tượng rằng tác giả có vẻ thiếu thành thật.
Thứ
ba, ngược lại trên, có những bài báo mà tác giả trình bày kết quả nhưng
không thấy báo cáo trong phần phương pháp! Tôi từng đọc những bài báo
tác giả trình bày những kết quả rất phức tạp, nhưng không biết dữ liệu
xuất phát từ đâu! Rất nhiều bài báo trình bày kết quả phân tích thống kê
nhưng không thấy mô tả trong phần phương pháp phân tích. Tình trạng này
làm cho người đọc có cảm giác rằng tác giả chẳng có kế hoạch làm nghiên
cứu, mà chỉ là một kiểu tra tấn dữ liệu (data torture) để có kết quả
theo ý mình.
Kinh
nghiệm cá nhân tôi cho thấy cách viết phần kết quả tốt là cấu trúc theo
tiêu đề. Tiêu đề nên bám sát theo phần phương pháp. Cách cấu trúc này
cho phép tác giả trình bày kết quả nghiên cứu theo một logic có trước có
sau, và người đọc cũng dễ theo dõi. Thông thường một nghiên cứu phải có
giả thuyết, và đoạn cuối cùng của phần kết quả nên có dữ liệu yểm trợ
hay bác bỏ giả thuyết.
Nguyên lí 5: Viết phần bàn luận gọn và khúc chiết
Kinh
nghiệm của tôi cho thấy phần bàn luận (discussion) là phần khó viết
nhất. Đây là phần mà tác giả tóm tắt những phát hiện chính, giải thích
tầm quan trọng của phát hiện, và chỉ ra những đóng góp vào tri thức cũng
như định hướng cho tương lai. Để viết tốt phần bàn luận, tác giả phải
tỏ ra am hiểu vấn đề, phải có một tầm nhìn lớn trong một “bức tranh”
rộng. Một trong những khiếm khuyết tôi hay thấy là có tác giả viết quá
dài (6-10 trang), rất dễ bị xem là nhiều chuyện. Nếu nghiên cứu
có kết quả tốt với phương pháp tốt, thì tác giả không cần phải “lí sự”
quá nhiều. Ngược lại, có những bài báo mà đọc xong phần bàn luận tôi có
cảm giác tác giả chẳng có ý tưởng gì, tất cả chỉ là lặp lại những gì đã
trình bày trong phần kết quả. Cả hai cách viết – quá dài và quá ngắn –
đều là cách viết không tốt. Cách viết mà tôi đã thí nghiệm và thành công
là cấu trúc 6 đoạn như sau:
Đoạn 1: tóm tắt lí do nghiên cứu, giả thuyết, và phát hiện chính.
Đoạn 2: so sánh kết quả với các nghiên cứu trước, và giải thích tại sao có sự khác biệt (hay giống nhau).
Đoạn
3: giải thích “cơ chế” của kết quả; nếu không biết hay không rõ cơ chế,
thì đề xuất giả thuyết để giải thích. Đoạn này khó viết nhất.
Đoạn 4: viết về tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn (nếu có) của kết quả nghiên cứu.
Đoạn 5: viết về những ưu điểm và khuyết điểm của nghiên cứu.
Đoạn 6: kết luận.
Nên
nhớ rằng trong khi diễn giải kết quả nghiên cứu hay so sánh với các
nghiên cứu trước, không được và không nên viết theo kiểu lí luận một
chiều. Trong khoa học, bất cứ một kết quả nào cũng phải được giải thích
bằng nhiều góc cạnh. Trong nhiều trường hợp, tác giả không ngần ngại nói
thẳng rằng kết quả có thể là … ngẫu nhiên.
Nguon nguyenvantuan.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét