Trong văn phong khoa học, có khái niệm cluttered writing, đề cập đến cách viết làm cho độc giả sao lãng cái thông điệp chính của câu văn. Clutter tiếng Anh có nghĩa là ồn ào, hoạt náo, lộn xộn. Những từ cluttered có nghĩa là những từ làm cho người đọc cảm thấy câu văn ồn ào, và lộn xộn, trở nên khó hiểu. Câu văn dưới đây chính là một ví dụ tiêu biểu, vì khi đọc xong câu văn, người đọc bị hoa mắt với những trạng từ và quên đi ý chính của tác giả là gì.
“The righteous thing is that a foreign language is nothing more than a foreign language which may due to some whatsoever reasons and howsoever it is coexist with the mother tongue, the very language a person eversince his first day thrown by All Mighty down onto the very lap of his mother starts to intensionally and intentionally hear, to intuitively sense, to indefectibly imitate and then to industriously develop.”
English is not just for saying Hello, asking for direction, or crying for Help!. And when a learner of English can use English to exactly and elaborately and correctly and fully and understandably and a-hundred-more-ly’s express his/her idea, opinion or theory, he/she can say that the target of being good at English is satisfactorily achieved!
Đó là câu văn tôi trích từ bài luận văn chỉ dẫn cách học tiếng Anh của ông Hoàng Hữu Phước, người gây ra vài tranh cãi gần đây về phong cách “tranh luận” độc đáo của ông. Câu văn đó nổi bật ở chỗ không chỉ là số từ (69 từ trong câu đầu, 55 từ trong câu hai), mà nó có rất nhiều trạng từ: intensionally, intentionally, intuitively, indefectibly, industriously, exactly, elaborately, correctly, fully, understandably, a-hundred-more-ly, satisfactorily. Riêng chữ a-hundred-more-ly thì chắc ông chế ra, chứ theo tôi biết, tiếng Anh không có chữ đó. Hai câu văn 124 chữ, mà có đến 12 trạng từ (gần 10%)! Có thể nói rằng đó là một câu văn rất lạ lùng, và có lẽ là độc nhất vô nhị trong văn tiếng Anh.
Viết bài báo khoa học là một hình thức truyền đạt ý tưởng và thông tin. Những câu chữ ồn ào không giúp ích gì cho mục tiêu đó. Ngày nay, mỗi chúng ta bị dội bom thông tin quá nhiều. Chỉ tính riêng khoa học, có thống kê cho biết lượng thông tin tăng 4.7% mỗi năm, và cứ 15 năm thì lượng thông tin tăng gấp 2 lần. Trong bối cảnh đó viết văn đơn giản và rõ ràng là yếu tố rất quan trọng để nâng cao hiệu quả của việc truyền đạt ý tưởng. Một trong những cách để đơn giản hoá câu văn là cố gắng tránh trạng từ và tính từ. Nên nhớ là chỉ “cố gắng” thôi, chứ trong vài trường hợp, chúng ta vẫn phải sử dụng đến hai loại từ này để bổ nghĩa hay nhấn mạnh một điểm nào đó. William Zinnser, một chuyên gia về văn phong khoa học, nhận xét rằng:
Phần lớn trạng từ là không cần thiết. Bạn sẽ làm cho câu văn tối nghĩa và làm phiền độc giả nếu chọn một động từ có một nghĩa đặc biệt nào đó rồi thêm vào trạng từ mà cũng chỉ để nói lên một ý [….] Đa số tính từ cũng không cần thiết. Cũng như trạng từ, tính từ rải vào câu văn bởi những tác giả quên rằng khái niệm đã bao hàm trong danh từ.
Nhưng không phải tính từ hay trạng từ nào cũng vô dụng. Một số câu văn cũng cần thiết có tính từ và trạng từ để bổ nghĩa. Cách dùng có thể tham khảo qua trang web Natural Language Toolkit (NLTK). Đây là trang web và software theo tôi là rất hay và có ích cho những ai cần tham khảo về cách viết tiếng Anh và phân tích tiếng Anh. Do đó, bài báo khoa học vẫn cần đến trạng từ và tính từ, nhưng tần số sử dụng có lẽ còn tuỳ thuộc vào văn cảnh và ý nghĩa của câu văn.
Xu hướng dùng tính từ và trạng từ rất khác nhau giữa các bộ môn khoa học. Tác giả Adam Okulicz-Kozaryn làm một phân tích thống kê về xu hướng dùng hai loại từ này trong các bài báo khoa học, và cho ra kết quả rất thú vị. Tác giả điểm qua 1000 bài báo công bố trong thời gian 2000 đến 2010 trong JSTOR. Ông dùng NLTK để tính số tính từ và trạng từ trong mỗi bài báo, rồi chia số này cho tổng số từ trong bài báo. Kết quả cho thấy tính từ và trạng từ chiếm khoảng 1 đến 1.15% tổng số từ trong bài báo khoa học. Tuy nhiên, phân bố thì rất khác nhau giữa các bộ môn. Đứng đầu tỉ lệ dùng tính từ và trạng từ là khoa học xã hội (1.15%). Các ngành khoa học nhân văn, luật, nghệ thuật, kinh tế cũng sử dụng khá nhiều tính từ và trạng từ. Những bài báo về khoa học tự nhiên có tỉ lệ tính từ và trạng từ thấp nhất (1%).
Như vậy, một bài báo trung bình (khoảng 6000 từ) thì có đến ít nhất 60 trạng từ và tính từ. Cũng cùng độ dài, số trạng từ và tính từ của các bài báo khoa học xã hội nhiều hơn 50% so với bài báo khoa học tự nhiên.
Tác giả (không phải tôi) kết luận rằng vì giới khoa học xã hội dùng nhiều tính từ và trạng từ nên bài báo của họ khó đọc và khó hiểu hơn là bài báo của giới khoa học tự nhiên. Tôi thì nghĩ kết luận này chưa phải là dữ liệu yểm trợ, vì tác giả mới cung cấp con số tính từ và trạng từ trong bài báo khoa học, chứ chưa đánh giá thế nào là khó hiểu/đọc và thế nào là dễ hiểu/đọc. Nhưng kết quả phân tích cũng đáng để chúng ta lưu tâm giảm số tính từ và trạng từ khi viết bài báo.
Tham khảo:
Okulicz-Kozaryn A. Cluttered writing: adjectives and adverbs in academic. Scientometrics 6/1/2013 Nguon nguyenvantuan.net.
|
Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013
Văn phong khoa học: tính từ và trạng từ
Cách viết “cover letter” cho tập san khoa học
![]()
Sau khi đã hoàn tất bản thảo bài báo, bước kế tiếp là đệ trình bài báo đến một tập san. Ngày nay, việc đệ trình bài báo cho một tập san thường được thực hiện trực tuyến. Khi đệ trình trực tuyến, tác giả cần phải chuẩn bị sẵn 3 văn bản: thư đệ trình (cover letter), văn bản chuyển giao bản quyền (copyright transfer), và văn bản tuyên bố mâu thuẫn lợi ích (conflict of interest). Trong các văn bản đó, lá thư đệ trình rất quan trọng, bởi vì qua lá thư, tác giả phải thuyết phục ban biên tập rằng bài báo có tầm quan trọng và xứng đáng được công bố trên tập san.
Lá thư đệ trình là một cái acid test cho ban biên tập hay người phụ trách biên tập bài báo. Kinh nghiệm cá nhân tôi cho thấy tôi không có thì giờ đọc hết bài báo; tôi chỉ nhìn qua lá thư đệ trình và bản abstract, rồi ra quyết định có nên gửi bản thảo ra ngoài cho bình duyệt hay không. Do đó, công việc quan trọng của tác giả là phải thuyết phục ban biên tập gửi bản thảo đi bình duyệt. Để đạt mục tiêu đó, tác giả phải tỏ ra chuyên nghiệp trong cách viết lá thư đệ trình. Lá thư đệ trình cần phải có những thông tin chính như sau:
Tựa đề bài báo. Đây là thông tin tối thiểu để ban biên tập có vài ý niệm về công trình nghiên cứu. Chẳng hạn như nếu tựa đề bài báo [theo kiểu viết ở bên nhà] là “Nghiên cứu XYZ ở Bệnh viện ABC, Huyện A, Tỉnh C, từ năm 2006 đến 2010” thì có lẽ ban biên tập không cần gửi ra ngoài để bình duyệt, vì chỉ qua tựa đề cũng biết tác giả chỉ quan tâm đến một vấn đề địa phương nào đó. Đây chính là lí do tại sao tôi đề cập thường xuyên rằng phải biết cách đặt tựa đề một cách khoa học và worldly.
Nội dung chính của bài báo. Tác giả cần có một đoạn văn ngắn để viết về bối cảnh hoặc câu hỏi nghiên cứu, phát hiện gì đáng chú ý, và nếu cần, một vài nét về phương pháp nghiên cứu.
Lí do gửi cho tập san. Câu văn này quan trọng nhất. Bất cứ một bài báo khoa học nào cũng có nhiều diễn đàn / tập san có thể đăng tải. Vấn đề là các tập san này có đẳng cấp rất khác nhau. Những tập san loại high profile (Nature, Science, New England Journal of Medicine, Lancet, JAMA, v.v.) chỉ công bố những công trình quan trọng, và họ từ chối rất nhiều (khoảng 90-99% bài báo gửi đến bị từ chối). Những tập san chuyên ngành thì dễ dãi hơn, nhưng tỉ lệ từ chối cũng dao động trong khoảng 70-80%, tuỳ vào chỉ số ảnh hưởng (impact factor - IF). Dù nhiều người không ưa chỉ số ảnh hưởng, nhưng sự thật vẫn là sự thật: những tập san có IF càng cao thì tỉ lệ từ chối càng cao, và bài báo nếu được công bố được trích dẫn nhiều và gây tác động lớn. Để thuyết phục công bố trên tập san lớn, tác giả phải viết một câu văn cho thấy nghiên cứu của mình là quan trọng và sẽ được độc giả của tập san quan tâm.
Hai câu văn mang tính cam đoan. Một câu văn tuyên bố rằng tất cả các tác giả đã đồng ý với nội dung bài báo. Câu văn khác cam đoan rằng bài báo chưa được gửi cho tập san nào.
Ngoài ra, lá thư còn phải có những thông tin về ngày tháng và tên của tổng biên tập. Tên của tổng biên tập hay người phụ trách phần học thuật và khoa học của tập san có thể tìm trong website của tập san (cần dùng Google, nếu không có sẵn).
Sau đây là vài cách viết mẫu và ghi chú của tôi.
Trong trường hợp bài báo đã qua bình duyệt lần đầu, và tác giả tái đệ trình bản thảo phiên bản 2, thì cách viết có phần hơi khác so với lá thư đệ trình lần đầu. Lá thư loại này cần đạt hai mục tiêu chính: chỉ ra cho được điểm tốt mà chuyên gia bình duyệt đã khen, và cho biết tác giả đã trả lời tất cả những nhận xét của các chuyên gia bình duyệt. Một ví dụ cụ thể như sau:
Một loại thư khác là email … xin bài vở. Nhiều khi chúng ta tìm được một bài báo thú vị hoặc quan trọng trong Pubmed, nhưng tập san chưa “mở” cho chúng ta đọc, nên không có nguyên bản bài báo. Trong trường hợp này, chúng ta có thể viết email (không cần thư) để xin bài. Làm sao biết địa chỉ email của tác giả? Ngày nay, địa chỉ nơi làm việc của tác giả, kể cả email, đều được công bố trên bài báo khoa học hay Pubmed, nên việc tìm địa chỉ email không quá khó khăn. Một cách khác là dùng Google để tìm địa chỉ (nơi làm việc và địa chỉ email).
Nội dung email có thể chỉ đơn giản như sau:
Hi vọng những cách viết thư trên đây sẽ đem lại may mắn cho các bạn.
Nguon nguyenvantuan.net
|
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)