Hôm
qua (27/12) tôi có dịp nói chuyện trong một seminar của Khu công nghệ
cao Sài Gòn (Saigon High Tech Park – SHTP). Trong 3 bài nói chuyện, có
một bài bàn về lí do bài báo khoa học bị từ chối. Đây là một đề tài tôi
tìm hiểu cũng khá lâu trong vai trò của một tác giả, người bình duyệt,
và biên tập. Tôi có thể chia sẻ những lí do từ chối bài báo khoa học mà
có lẽ ít khi nào được đề cập một cách công khai trên các tập san khoa
học. Nhiều bạn đề nghị tôi chia sẻ bài này cùng các bạn không có dịp
tham gia buổi seminar, nên tôi đăng kèm theo đây bài nói chuyện đó. Nhân
dịp năm mới sắp về, mến chúc các bạn xa gần một năm mới an khang và
nhiều may mắn.
Bất
cứ ai làm khoa học cũng có hơn một lần ngậm ngùi thấy tác phẩm của mình
bị từ chối. Ngày nay, tin bị từ chối thường được gửi qua email, mà dòng
đầu của lá thư thường có câu đại khái như “Thưa giáo sư ABC: Chúng
tôi đau lòng báo tin cho giáo sư biết rằng bài báo của giáo sư không
được chấp nhận cho công bố trên tập san XYZ. Chúng tôi nhận khoảng 1000
bản thảo mỗi năm, và chúng tôi phải từ chối khoảng 90%, dù những bài báo
đó rất tuyệt vời. Cám ơn giáo sư đã cho chúng tôi cơ hội xem qua
công trình của giáo sư, và hi vọng rằng trong tương lai, giáo sư sẽ
tiếp tục gửi bài cho chúng tôi.” Thật ra, họ nói là “đau lòng”, chứ
trong thực tế thì họ chẳng đau lòng chút nào cả! Họ nói là đã đọc qua,
nhưng chắc gì họ thật sự đã đọc hết bài báo. Kinh nghiệm của tôi cho
thấy, họ chỉ đọc tựa đề, bản tóm tắt, và xem qua vài bảng số liệu hay
biểu đồ mà thôi, và họ quyết định từ đó. Do đó, để nâng cao xác suất
được chấp nhận, cần phải đặt tựa đề bài báo cho thích hợp, soạn bảng
biểu cho thật tốt và công phu.
Đọc
những lá thư như trên là một kinh nghiệm đau lòng. Có lần một nghiên
cứu sinh của tôi khóc ròng khi nhận lá thư từ chối, và chị ấy phải mấy
cả 3 tuần lễ mới “hồi phục”. Phản ứng trước quyết định bị từ chối có khi
rất … cảm tính. Chẳng hạn như lá thư nổi tiếng dưới đây của một tác giả
gốc Âu châu gửi cho tổng biên tập của American Journal of Epidemiology (tập san số 1 vè dịch tễ học trên thế giới mà tôi là một người duyệt bài) có đoạn viết:
Dr. Szklo,
What could I expect from an american (sic) editor? I will no longer buy american (sic) products.
Rõ
ràng, tác giả rất giận dữ. Chú ý rằng tác giả không thèm có chữ “Dear”
trước tên của ông Szklo. Ông còn “giận cá chém thớt” bằng cách đe dọa
không mua hàng hóa của Mĩ. Có lẽ vì quá giận, nên vị tác giả này thậm
chí viết sai chính tả (hay cố tình đánh vần thường cho chữ American)!
Là
người bình duyệt và biên tập cho một số tập san khoa học qua nhiều năm,
tôi thu thập được một số kinh nghiệm và thông tin về số phận những bài
báo khoa học bị từ chối. Mỗi năm, ban biên tập thường có một buổi họp
cuối năm để nghe nhà xuất bản báo cáo về số lượng bản thảo được nộp, số
bài bị từ chối, và lí do bị từ chối. Qua những cuộc họp này, tôi có thể
biết được một số lí do bài báo bị từ chối chính. Những lí do này có thể
tóm lược trong 4 nhóm:
- Tầm quan trọng của đề tài nghiên cứu
- Phương pháp và thiết kế nghiên cứu
- Cách trình bày dữ liệu và cách viết
- Diễn giải kết quả nghiên cứu
Chi
tiết của những lí do vừa đề cập trên được đề cập trong bài nói chuyện
(kèm theo đây). Những công trình nghiên cứu “me too” (tức lạp lại hay
bắt chước nghiên cứu trước đây) sẽ khó có cơ hội công bố trên các tập
san có tiếng. Những nghiên cứu mà câu trả lời chẳng có ảnh hưởng gì đến
chuyên ngành, chẳng gây tác động gì đến chính sách công hay thực hành
lâm sàng cũng khó có cơ hội được công bố. Những vấn đề liên quan đến
phương pháp nghiên cứu (mô hình không thích hợp, phương pháp đo lường
kém, phương pháp phân tích dữ liệu sai, thiết kế sai, v.v.) cũng là một
trong những lí do bị từ chối nhiều nhất. Bảng dưới đây thống kê những lí
do bị từ chối phổ biến nhất. Gần 3/4 bài báo bị từ chối là do khiếm
khuyết về phương pháp nghiên cứu và phương pháp luận.
Một số lí do chính
|
Phần trăm
|
Phương pháp và phương pháp luận
|
74.3
|
Tầm ảnh hưởng thấp hay không có ảnh hưởng
|
60.3
|
Văn phong
|
58.4
|
Tổng quan tài liệu
|
50.9
|
Phân tích dữ liệu
|
42.1
|
Cấu trúc bài báo
|
34.6
|
Chất lượng và tính nghiêm túc
|
30.0
|
Lấy mẫu
|
29.2
|
Phần kết luận
|
27.6
|
Phần bàn luận
|
25.2
|
Tài liệu tham khảo
|
23.6
|
Hai
nhóm nguyên nhân bị từ chối khác là văn phong khoa học và diễn giải kết
quả. Văn phong khoa học dở, tiếng Anh sai quá nhiều, cách trình bày dữ
liệu lượm thượm, v.v. thường làm cho người bình duyệt bực mình và rất dễ
bị từ chối. Ngoài ra, kết luận không phù hợp với dữ liệu cũng là một
trong những lí do bị từ chối khá thường xuyên.
Biết
được lí do bài báo bị từ chối cũng là một cách học. Học để nâng cao xác
suất được chấp nhận của bài báo kế tiếp cao hơn. Nếu những phân tích
trên đây cung cấp một thông điệp chính, tôi nghĩ đó là vấn đề ý tưởng và
phương pháp. Đừng phí thì giờ cho những ý tưởng làng nhàng tủn mủn,
những ý tưởng “mickey mouse”, vì những nghiên cứu như thế sẽ chẳng dẫn
tác giả đi đến đâu trong khoa học. Ý tưởng hay mà phương pháp không
thích hợp cũng khó có cơ may được công bố. Bởi vì gần 75% bài báo bị từ
chối là do khiếm khuyết về phương pháp, nên các tác giả cần phải đặc
biệt quan tâm đến phần phương pháp nghiên cứu.
Thật ra, bài báo bị từ chối có khi là một cơ hội hay. Theo một phân tích mới đây,
những bài báo bị từ chối sau khi được chỉnh sửa lại thường được công bố
trên những tập san có impact factor cao. Do đó, không nên buồn khi
thấy công trình của mình bị từ chối, mà nên xem đó là một cơ hội để làm
cho tốt hơn và hay hơn.
N.V.T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét